Thứ Hai, 2 tháng 1, 2017

Hành trình của những kẻ cô đơn - Chap II - Gặp mặt


Người ta thường nói rằng khi ta gặp những người bạn đặc biệt, ta thường có những cảm giác hoặc ấn tượng đặc biệt nào đó đi kèm. Pice chẳng biết điều đó đúng hay không, nhưng cô cho rằng đôi khi người ta chỉ cố nghĩ ra cái gì đó để giải thích cho sự việc thôi, vì gặp mặt ai đó đều có những nét đặc biệt riêng. Riêng với 2 đứa Resno và Ango thì … lại chẳng có gì đặc biệt cả!

Throwback về quá khứ 4 năm về trước…
– “Và sau đây xin chúc mừng thủ khoa khoa Tiếng Anh – Bạn Võ Ango! Xin mời bạn lên trên sân khấu.” – Tiếng MC vang lên trong buổi khai giảng nhập học đầu năm của mấy đứa sinh viên năm nhất

Một con bé lò dò bước lên, nó đeo cặp kính che gần nửa khuôn mặt, tóc ngắn, da ngăm ngăm đen. Nó có vẻ hơi ngại ngùng trong chiếc áo sơ mi trắng sơ vin với cái quần bò đen, cười gượng gạo khi nhận phần thưởng của trường và đối diện với cái máy ảnh.

– “Nhìn bạn này đúng chuẩn dáng mọt sách, bảo sao thủ khoa, chắc suốt ngày chỉ biết học.”

Đấy là suy nghĩ đầu tiên của Pice về cô bạn thủ khoa này. Tuy biết rằng đánh giá một người chỉ qua 1 lần gặp mặt chưa nói chuyện có phần phiến diện, nhưng cô phải công nhận ai nhìn thấy Ango cũng sẽ đều có những ấn tượng như vậy.

– ” Các em lên văn phòng khoa Anh để xem danh sách lớp nhé!”
Lục đục chạy lên văn phòng khoa để xem cái danh sách lớp, Pice hi vọng mình sẽ được xếp vào lớp nào có nhiều bạn giỏi để có thể tiến bộ. Điểm đầu vào của Pice không quá cao, nhưng cũng tạm ổn để cô hi vọng mình sẽ được vào một lớp kha khá. Lướt 1 lượt từ đầu đến cuối danh sách, Pice thấy cái tên Võ Ango.

– “Ồ, lớp mình có cả bạn thủ khoa này, chắc lớp này ổn đấy :”)” – Pice mừng thầm.

Sau đó cô biết thêm, lớp cô còn có cả bạn á khoa, điều đấy càng củng cố 1 niềm tin mạnh mẽ cho Pice rằng rồi sau này cô sẽ được học với nhiều người giỏi, được học nhiều cô giáo dạy hay, về một tương lai sáng lạn ở khoa Anh này…

**

Ngày học đầu tiên, lớp bầu tạm lớp trưởng, lớp phó, bí thư và thủ quỹ. Pice cũng là một đứa ưa hoạt động, vì cô luôn có một tâm niệm rằng lên Đại học sẽ là khoảng thời gian cho cô bay nhảy, tham gia thật nhiều phong trào để tạo nên những kỉ niệm đẹp nhất cho thời sinh viên của mình. Pice vì thế xung phong làm bí thư, sau 1 tràng giới thiệu thành tích các kiểu thì… cô chẳng được làm cái chức vụ khỉ gì trong lớp. Khốn! :v

Lớp đã bầu xong 1 loạt các chức vụ, còn mỗi thủ quỹ là chẳng đứa nào dám nhận.

Từ phía dưới cuối lớp, một con bé tóc đen dài giơ tay lên

-“Thôi nếu không ai làm thì để tớ làm cho, tớ thích giữ tiền.”

Con bé đó chính là Resno. Pice quay lại nhìn con bé đó… Con bé lại cúi đầu xuống, có vẻ khép kín, tay nó lại vân vê mấy cái lọn tóc đen hơi xoăn xoăn ở trên đỉnh đầu. Nó cũng mặc một cái áo màu tối, ngồi ở bàn cuối lớp. Chắc con bé này là đứa hướng nội, giữ tiền sẽ cẩn thận. Tuy nhiên có vẻ lại là một đứa hơi khó tính và khó gần. Pice lại quay lên và mải làm quen với các bạn mới khác trong lớp.

Không giống như việc Harry Potter gặp Hermonie và Ron, 3 đứa không thân ngay từ những lần đầu nói chuyện. Nhưng bằng cách nào đó, 3 đứa chúng nó vẫn thân nhau, và còn lập lên một nhóm Reactionary girls. Pice càng có niềm tin rằng, không nhất thiết khi gặp những người bạn đặc biệt ta cần có những cảm giác đặc biệt, điều quan trọng rằng tình bạn ấy đã trải qua những cái gì và được vun đắp như thế nào… Định mệnh nhiều khi không quá đơn giản hay lộ liễu ngay từ lần đầu tiên, cũng không phải là cái gì đó tự nhiên rơi từ trên xuống. Để tìm thấy những thứ đặc biệt, đôi khi chúng ta cần phải cố gắng, chiến đấu hoặc thậm chí tan đàn xẻ nghé vài lần…

Những ấn tượng về 2 đứa là rất nhỏ, chỉ là những suy nghĩ thoáng qua trong đầu óc Pice giữa vô vàn suy nghĩ về những người bạn mới. Nói chung là khi gặp mặt 2 đứa này, Pice chẳng bao giờ nghĩ là nó đặc biệt gì trong đám bạn cô mới gặp hồi sinh viên năm nhất. Dường như lúc ấy, Pice là một con ngựa mới xổng chuồng, cô thích chơi với những bạn năng động, hướng ngoại vui vẻ chứ chưa tìm được điểm chung nào đối với những đứa khép kín hay mọt sách. Cô đã phát ngán việc học rồi, đối với cô, 12 năm dán mắt vào học đã là quá đủ! Cô muốn bay nhảy, cô muốn đi, cô thậm chí còn không muốn bản thân mình bị down bởi những đứa hướng nội…



**

Học kì II năm nhất, Pice được chị cô giới thiệu cho phỏng vấn vào một câu lạc bộ Tình nguyện mới thành lập tại trường. Phấn khích với điều mới mẻ này, Pice đi phỏng vấn và vào ban Marketing and ER của câu lạc bộ. Chủ nhiệm câu lạc bộ là 1 anh năm 4 – Tocoa – một người cũng có kha khá tác động lên Pice nhưng chắc cô không kể ở trong cuốn truyện này.

Điều làm cô ngạc nhiên hơn cả là cô thấy con bé Resno ở đấy! Cô không biết nó tham gia câu lạc bộ này từ khi nào. Nó ở ban dự án, và cô thì có nhiệm vụ phải PR cho cái dự án mà nó đang làm.

Kể từ khi tham gia vào câu lạc bộ, Pice nói chuyện với Resno nhiều hơn. Cô phát hiện ra là con bé này khó tính và nói lắm vãi! Đôi khi nó làm cô sợ vì cái tội cứ sồn sồn lên mỗi khi nó bực mình. Hai đứa chỉ hay nói chuyện về công việc trong câu lạc bộ, đặc biệt con bé phát huy hết tốc lực và năng lượng của mình khi … nói xấu Tocoa. Tocoa có một đam mê mãnh liệt đó là anh ta có thể đút tất cả chúng nó vào một cái bao rồi làm cho chúng nó yêu nhau chỉ bằng vài câu nói và sức ảnh hưởng của anh ta. Pice và Resno đều đồng ý rằng, ông đã khá thành công khi trở thành 1 người ảnh hưởng để gắn kết 2 đứa chúng nó cùng với mấy đứa trong câu lạc bộ lại với nhau chỉ bằng cách … trở thành tâm điểm của mọi cuộc nói xấu! Nếu Tocoa biết được điều này, hẳn sẽ hạnh phúc và cảm động rơi nước mắt!

Câu lạc bộ là nơi mà Pice tiếp xúc và thân với Resno hơn, tuy nhiên tất cả mới chỉ là bắt đầu…

Cảm thấy vẫn hơi có lỗi với Ango vì cho đến tận lúc này, Ango vẫn đang rất mờ nhạt trong kí ức của Pice. Cô chắc hẳn nó đang ở nhà vui vẻ với cái chồng sách của nó hoặc thất vọng vì những gì khoa Anh mang lại cho nó những năm đầu Đại học… Đến đây, Pice lại nhớ đến câu nói rằng Ango chắc sẽ lấy chồng … sách! Dù gì thì, hi vọng bạn sẽ đủ kiên nhẫn và đợi chờ việc Ango trỗi dậy ở những phần sau…

Hành trình của những kẻ cô đơn - Chap I - Cảm hứng



Hà Nội vào những ngày cuối năm, cái nắng hanh hanh, mấy cơn gió se se khiến con người ta trở nên nhạy cảm. Những cô gái có thể cười tươi như nắng, tung tăng trên những cung đường để gió lùa tóc rối gió bay bồng bềnh trong ngày nắng. Vài bạn đáng yêu có thể khoác ba lô lên đến những cung đường hoặc một vài ngõ ngách của Hà Nội để bắt nắng và bắt gió ngừng lại trong từng pô ảnh. Vài người nao nức mua đồ đón tết, hay chuẩn bị đồ để về với những người thân yêu. Ở cơ quan, người ta trao cho nhau những câu chúc Happy New Year cho những ngày làm việc cuối cùng của năm 2016.

– Alo, Pice à e?
– Vâng chị ạ!
– Hôm nay và thứ 2 em TuTi nghỉ nhé em, nhà em ấy có việc. Với lại chị dặn em này, khi em đến dạy TuTi em phải blabla…
– Dạ vâng em hiểu rồi ạ! Em chào chị!

Tắt máy, cô thấy mình lại rơi vào một khoảng không bồng bềnh trong suy nghĩ. Pice theo chuẩn của xã hội thì cũng có vẻ bình thường, cũng tóc đen, da vàng, mặt mũi đầy đủ không đến nỗi nhưng gia đình cô lại coi cô như 1 alien với mấy tính cách theo họ là không bình thường.
Cô thích việc đi dạy, bởi cô cho rằng giáo dục có thể thay đổi cả số phận của một con người. Tuy nhiên, cô cũng hiểu rằng chưa bao giờ dạy học là một điều dễ dàng cả. Dạy học là một việc vô cùng khó khăn và nhạy cảm, bởi sự quan trọng của nó đối với cuộc sống của 1 con người. Dạy học không những yêu cầu cần có kiến thức tốt mà còn yêu cầu cần có phương pháp, có cơ sở lí luận kèm theo quan sát, thử nghiệm, đưa ra những giải pháp tốt cải thiện cho học sinh của mình. Vì mỗi học sinh là những có những thói quen, tính cách, mức độ tiếp thu khác nhau nên với cô mỗi học sinh là 1 cuộc hành trình đầy thử thách nhưng cũng rất thú vị.
TuTi là một đứa học sinh đáng yêu, cá tính, tuy nhiên cũng ham chơi và lười học. Cô có nhiệm vụ trở thành 1 người bạn của TuTi và sau đó hướng TuTi đến những kiến thức tốt. Đây cũng là 1 thử thách cô muốn đặt ra cho mình, tuy nhiên đề bài đưa ra cũng thật quá mông lung, và kì vọng của phụ huynh khiến cô không biết mình nên làm gì tiếp theo… Cô thấy mình như thể là 1 governess, tuy nhiên để hướng học sinh đến những tài liệu hay, thói quen tốt thì thực sự cần thời gian, nhất là đối với những học sinh cá tính và mải chơi như thế này… Cũng thấy buồn, bố mẹ không thể có thời gian ở cạnh con cái, dạy cho con những cái hay ho, chỉ có thể cho chúng vật chất và nhờ người làm thay nhiệm vụ của mình. Thở dài một hơi, cô lại tự nhủ: Thôi thì cố gắng!

Sau cuộc gọi ấy, cô đã bị bỏ bom kế hoạch của bản thân. Trong thời gian trống này, cô lại muốn làm thật nhiều thứ, cô lại đứng giữa hàng loạt các lựa chọn.

– “Ê, rảnh không, đi xem phim với tao?” – Drop cái tin nhắn vu vơ và đầy cảm hứng vào nhóm Reactionary girls.
– “Bây giờ á?” – Resno đáp
– “Ừ, bị học sinh bỏ bom rồi!”
– “Tao đang định đọc sách”
– “…Thế là không đi hả?”
– “Ừ.”

Resno là một đứa sống trên giường. Nếu vào ngày rảnh không phải đi đâu, cuộc sống của nó chỉ là đi từ giường xuống nhà ăn và đi từ nhà ăn về giường. Thế nên là, kéo nó đi xem phim vào một ngày nó đang trên giường như thế, cũng biết chắc là nó sẽ không đi đâu và nói là còn phải học và đọc sách. Thế rồi chắc rằng ngày mai nó vẫn sẽ lại kêu lải nhải: “tao chả làm được cái gì cả bọn mày ạ!”

Nhóm còn 1 đứa nữa tên Ango. Dạo này nó kín tiếng ít thèm rep inbox nên suýt nữa không được xuất hiện trong mấy dòng này. Theo đề nghị của Resno, Pice sẽ mô tả Ango bằng một câu: “Ôi tao buồn quá, tao muốn khóc quá!”. Vì là chẳng nhận được lời rep nào từ Ango nên thôi cô cũng xác định hôm nay sẽ lại một mình lang thang.

Nhấc mông khỏi bàn làm việc, Pice chụp lấy cái áo gió, quàng cái khăn to sụ và khệ nệ vác 1 balo đựng sách và 1 cái cặp đựng máy tính về. Nhân tiện nói thêm, trong balo của Pice bao giờ cũng có sách, chỉ là để chữa bệnh tâm lí cho một đứa muốn đọc quá nhiều thứ mà ko sắp xếp được nhiều thời gian để đọc. Thế nhưng vấn đề của Pice là làm việc theo cảm xúc và rất tùy hứng, mà hứng của cô thì có thể thay đổi chỉ sau 1 cái búng tay. Tự tin với balo sách này, Pice quyết định đi tới quán cafe sách ở phố Đặng Dung để ngồi nghiền ngẫm thay vì đi xem phim.

Vì là cafe sách nên sách ở đây cũng khá nhiều thể loại, cũng nhiều sách của NXB Tri thức hay, cũng có cả những cuốn ngôn tình hay tiểu thuyết… Ngồi xuống, Pice với tay lấy 1 cuốn về các nguyên tắc nhận thức của con người, cô bắt đầu đọc…



!@#$%^&*()

Quán này hôm nay ồn vãi! Bàn bên cạnh đang là mấy bạn ngồi nói chuyện về thành công, đằng trước mặt lại là một cặp đôi, đứa nào đứa nấy cúi đầu vào ipad của mình rồi thi thoảng lại chí chóe. Cô hi vọng ở đây sẽ nhìn thấy nhiều bạn ngồi một mình hay ho mà có vẻ như hôm nay không phải như thế. Nó khác hẳn với cái ấn tượng đầu tiên của cô về cái quán này, và hôm nay cô cũng chẳng gặp bạn nữ nào đáng yêu ngồi đọc sách một mình giống cô cả! Được mỗi bạn phục vụ rất xinh.

Lang thang mãi vài quán cafe ở Hà Nội, cô chưa tìm được quán nào thực sự ưng ý và phù hợp với tiêu chuẩn của mình: có đồ ăn và đồ uống ngon, yên tĩnh, có sách, đèn vàng mà giá cả cũng phải xinh xinh. Có vẻ như không chỉ việc tìm kiếm quán cafe, mà tất cả các cuộc tìm kiếm khác của cô và của nhóm đều có vẻ gặp rất nhiều khó khăn. Cuộc sống này là một cuộc hành trình, còn cô và những người bạn của cô lại luôn là những kẻ cảm thấy cô đơn hay lạc loài trong cuộc hành trình ấy.
Do ồn ào, cô thấy khó lòng có thể tiếp tục việc đọc cuốn sách kia. Nhạc cũng to quá, đèn cũng sáng quá, và cô cũng khó tính quá. Đặt cuốn sách lại lên giá, cô quyết định lôi máy tính ra và bắt đầu gõ…

“Hành trình của những kẻ cô đơn….”

Chủ Nhật, 25 tháng 9, 2016

Profiler và Cognitive Bias

I.                    Tác giả tác phẩm

1.       Thế nào là Criminal Profiling?
Thu thập hồ sơ tội phạm là 1 quá trình phân tích những bằng chứng vật lí, bằng chứng hành vi. Criminal Profiling cần áp dụng tính logic, sử dụng kỹ năng bẩm sinh, được đào tạo và nhiều năm kinh nghiệm.
Người profiler là người thu thập hồ sơ thông tin để xây dựng lên profile của kẻ khả nghi.

2.       Tác giả
Tác giả Pat Brown sinh năm 1955 tại bang New Jersey nước Mỹ, sau đó cùng gia đình chuyển đến Virginia khi cô 9 tuổi. Bà sống ở Maryland từ năm 1982.
 Bà đã từng muốn trở thành một nhà văn hóa và nhân loại học, nhưng trường ở Virginia ko khiến bà cảm thấy hứng thú hay thách thức trong việc học. Sau đó bà chuyển đến Đại học New Mexico, rồi đến một trường ở California, trường đại học Washington của Mỹ và Đan Mạch. Bà không thấy tương lai vào ngành mình chọn, không thể quyết định muốn làm chuyên về ngành gì. Thay vào đó, bà lấy chồng năm 23 tuổi và chuyên ngành làm vợ và làm mẹ. Bà cũng quyết định ở nhà nuôi dạy con học vì vấn đề kinh phí. Chồng là một người công nhân cơ khí nên thu nhập của gia đình cũng không cao.
Khi con lớn, bà muốn bắt đầu sự nghiệp riêng cho mình, nhưng với bằng tốt nghiệp liberal art lúc đó, bà không chắc là sẽ phải làm gì. Sau đó bà học lớp ngôn ngữ ký hiệu vì rất yêu thích làm việc với trẻ em khiếm thính.Bà trở thành người phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu.Đấy cũng là lúc bà bắt đầu biết nhiều hơn về tội phạm, vì phải giải quyết các công việc ở phòng cấp cứu nơi mọi người luôn là nạn nhân của tội ác.
Sau đó khi mà vụ án của cô gái Anne Kelley xảy ra, bà nghi ngờ tên tội phạm chính là kẻ đang trọ tại ngôi nhà mình. Hắn là bạn trai của cô bạn thân của bà nên bà quyết định cho ở. Tuy nhiên hắn cũng có những biểu hiện rất kì quái mà nhiều lần bà phải tự nhủ là mình đang ác cảm với hắn. Tuy nhiên sau khi nghe tin cô gái trẻ bị rape chết, bà đã nghi ngờ Walt và thu thập bằng chứng. Các bằng chứng tìm được đều đáng nghi ngờ. Chồng bà lại không hề ủng hộ vì không muốn bà vướng phải rắc rối với cảnh sát, và cố gắng bảo bà quên chuyện đó đi. Khi bà đến chỗ cảnh sát cùng với manh mối mình tìm được, cảnh sát lại phớt lờ không thèm nghi ngờ hay xem xét kỹ.
Do c/s xa cách không tìm được điểm chung và sự thấu hiểu, bà li hôn sau 25 năm chung sống.
Sau đó bà tiếp tục theo đuổi profiler và tự học online, đọc sách và nhận được Master’s degree in criminal justice.  Bà nhận ra rằng những điều bà đọc trong sách có rất nhiều cái không đúng, quay lại kiểm tra vụ Anne và phỏng vấn rồi phát hiện ra rất nhiều người có vấn đề với Walt. Sau khi thu thập thêm chứng cứ, cảnh sát đã confirm lại Walt là kẻ tình  nghi số 1. Bà trở thành 1 profiler thực sự, lên TV, lập trang web riêng để phục vụ công việc.
Năm 1996, bà thành lập The Sexual Homicide Exchange (SHE). Năm 2000, CEO của 1 agency mang tên mình.

3.       Tác phẩm.
-          Tác phẩm tập hợp một số vụ án mạng (chủ yếu là cold case) mà tác giả gặp phải và tác giả đã phá vụ án ấy ra sao. Nếu như một người thiếu kinh nghiệm, khả năng quan sát và phân tích sẽ gặp khó khăn rất nhiều trong các vụ án đấy. Tác giả hi vọng người đọc sẽ hiểu hơn về những khó khăn trong điều tra của những ng cảnh sát, thám tử, profiler và ủng hộ họ trong công việc của mình.
-          Điểm cộng: Viết theo từng case phân tích cụ thể, dễ tiếp cận, dẫn dắt đc người đọc theo việc kể lại
-          Điểm trừ: Chưa nhóm các case lại theo 1 số điểm chung. Truyện viết theo ngôi t1 nên đôi khi tác giả nhận định cũng còn phiến diện, chưa có bằng chứng cụ thể dẫn đến tại sao lại khẳng định như vậy mà ng đọc không kiểm chứng được.
-          Trong truyện này, các case phần lớn đều bị thất bại do nhìn nhận phiến diện vấn đề. Vậy Cognitive bias là gì? Cách nhận biết mình đang bị cognitive bias như thế nào? Hạn chế nó ra sao?

II.                  Định nghĩa

1.       Bias
Bias theo từ điển Cambrigde nghĩa là sự ủng hộ hay phản đối ý kiến của người khác một cách không công bằng do bản thân chịu sự ảnh hưởng và tác động của người đưa ra ý kiến. Bias theo Wikipedia có thể hiểu đơn giản là sự phiến diện trong khi đánh giá một vấn đề.
2.       Cognitive Bias (nhận thức phiến diện)
Sự phiến diện khi đánh giá, thường không có đầy đủ bằng chứng. Cognitive bias dựa trên kinh nghiệm, trải nghiệm nhỏ bé của mỗi cá nhân mà rút ra kết luận chung cho 1 hiện tượng, 1 sự việc…

III.                Các loại cognitive bias
Phiến diện trong nhận thức được chia làm rất nhiều loại theo biểu hiện của nó. Tuy nhiên dưới đây chỉ kể 1 số bias mà người làm cho rằng nó phổ biến và cần chú ý. Đây cũng là bias của người viết, các bạn có thể search thêm nhiều loại bias khác.
1.       Anchoring bias:Tin vào ấn tượng ban đầu, phụ thuộc vào ấn tượng ban đầu để đánh giá sự việc sau này.
Ví dụ: Bạn A ban đầu có ấn tượng không tốt với bạn B. Những việc bạn B làm sau này đều khiến bạn A không ưa.
2.       Attribution bias:cố ý tìm kiếm nguyên nhânk phù hợp để giải thích cho hành vi của họ
Ví dụ: Bạn B tìm kiếm nguyên nhân tại sao bạn A lại không ưa mình: Vì mình xinh hơn bạn A, vì mình giỏi hơn bạn A… mà những nguyên nhân đấy chỉ là assumption, chưa có sự xác nhận.
3.       Confirmation bias :Tìm kiếm thông tin để confirm cho niềm tin của mình
Ví dụ: Bạn A tin rằng sau này mình sẽ sung sướng và thành công. Bạn đi xem bói hoặc đọc tử vi và chỉ tin những chi tiết nói mình giỏi, sau này mình sẽ sướng và thành công. Những chi tiết nói bạn khổ hay ko thành công thì để ngoài tai và không tin vào điều đó.
4.       False memories:người A recall lại ký ức mà thực tế chưa từng xảy ra cho người B. Thêm 1 vài thuyết phục do lúc đó người B không tỉnh táo, người B dưới áp lực và được confirm nhiều lần thì dần dần tin vào cái ký ức được tạo ra đấy.
5.       Hallo effect: Ấn tượng chung ảnh hưởng đến cách nhìn nhận vấn đề sau này
Ví dụ: Bạn A có ấn tượng chung về bạn B là một người tư duy tốt và quyết đoán. Các quyết định của bạn B đều khiến bạn A tin rằng đó là đúng. (Khác với Anchoring ở chỗ đây là ấn tượng chung, ko phải ấn tượng ban đầu)

IV.                Nguyên nhân
-          Information processing shortcut: Quá trình tư duy bị rút gọn, ko theo lộ trình tư duy logic, chưa tìm đủ thông tin đã đưa ra kết luận.
-          Noisy information processing (distort the process of storage in and retrival from memory): Quá trình thu thập và xử lí thông tin bị nhiễu, làm bóp méo kho lưu trữ và phục hồi lại ký ức. Khi kể lại thông tin đã bị bóp méo, ko còn chính xác nữa.
-          Brain limited information processing capacity: Thiếu khả năng xử lí thông tin
-          Emotional and moral motivation: Bị tác động bởi cảm xúc và động cơ
-          Social influences: Bị tác động bởi những quan điểm, mô hình chung mà xã hội gán lên.

V.                  Cách khắc phục
Bias là một cái rất khó tránh khỏi trong cuộc sống hàng ngày. Trong cuốn Profiler, tác giả có gợi ý 1 số cách sau đây để có thể giảm thiểu bias.
-          Quan sát (Rèn luyện kỹ năng quan sát, nên quay lại video, chụp ảnh… )
-          Liên tục tự kiểm tra lại thông tinđã được đưa ra (quá trình đưa ra thông tin ấy, tự trải nghiệm or tìm nghiên cứu. Tìm nghiên cứu cũng cần xem cách thức thực hiện nghiên cứu có bị bias không, đối tượng, số liệu có bias ko?...)
-          Tự trải nghiệm, đi đến hiện trường chứng kiến tận mắt, nhập vai nếu cần thiết.
-          Làm việc theo nhóm nhiều người có nhiều góc nhìn và quan điểm khác nhau, kiểm tra suy luận của mỗi người, cố gắng đặt ra nhiều giả thuyết và trường hợp.



Thế giới này là thế giới của ai?

Bức tường thành ảm đạm dọc các lối đi. Ta lang thang nhặt nhạnh những gì còn sót lại. Một thế giới xa xôi, một thành trì xa lạ. Ta tò mò đi dọc các lối đi. Muốn bắt lấy những khung màu cũ kĩ. Màu của mây, của gió, của thành trì. Có vài tán cây xanh, trong mát với mặt trời. Mấy lá vàng rụng rơi tạo nên nét đẹp buồn đượm thắm. Ta đi quanh lang thang khu phố. Bụi mịt mù, đường đá lẫn sỏi đen.


Trời về khuya ta thấy ánh mặt trăng, chẳng lờ mờ như trăng vẫn thế. Trăng hôm nay hay nơi này lạ thế. Sáng trắng cả trời soi rọi bước chân ta. Ta ngẩng lên. Chẳng biết là trăng hay hành tinh nào đó. Chẳng phải một mà đến cả năm. Trăng màu xanh, to và nặng trịch. Ta bước vào thế giới của ai?



Ta gặp lại người ta thương thủa trước. Ngồi chuyện trò mới thấy người lạ thay. Dường như người chẳng còn là người nữa, độc ác hung tàn giận dữ với ta. Phải chăng đây là thế giới của tà ma? Hay là của phần xấu xa trong con người ấy? Đám mây trắng lờ mờ trước mắt. Ta cũng thấy mình hiện hữu trong mây. Thực tại kia là thực tại của ta. Và người ta thương lại thành ra kẻ khác. Mọi thứ mờ mờ rồi biến mất giữa không trung. Để lại ta mông lung trong ký ức…




Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2016

Có những cảm xúc đến muộn

Có một câu nói “Nếu bạn muốn yêu thương ai đó, hãy yêu thương chính bản thân bạn trước đã”. Nếu bạn yêu và chấp nhận bản thân mình, thì bạn sẽ giàu tình yêu thương hơn, dễ chấp nhận người khác hơn. Bởi lẽ mặc dù bạn mắc lỗi lầm, mặc dù có lúc bạn làm nhiều điều sai làm hại đến chính bản thân bạn và bạn tự thấy chán ghét chính mình…nhưng một khi bạn có thể tha thứ cho chính bản thân bạn, một khi bạn đã vượt qua được sự tự vấn lương tâm, thì tự khắc bạn sẽ có cái nhìn vị tha hơn trong cuộc sống, sẽ bao dung hơn với những người khác. Sẽ thấy được là con người thì ai cũng có thể mắc sai lầm và để tha thứ là một nghệ thuật không phải tự nhiên có được, mà phải học, phải trải nghiệm và chiêm nghiệm…



List nhạc:

1. Kiss the piano - You are the same like me

2, Sun and Wind - Another world

3, We are all alone - Rita


Thứ Tư, 31 tháng 8, 2016

Biên niên sử Narnia - Bài học về sự trưởng thành



Nhiều bạn bè có hỏi tôi về những cuốn sách có thể cho con cái họ đọc. Tôi hỏi họ rằng họ muốn biến con cái họ sau này thành người như thế nào? Thế là họ im lặng. Ai cũng muốn điều tốt nhất cho con cái mình, nhưng điều tốt nhất ấy là gì, đó là một câu hỏi khó. Tôi nghĩ, điều tốt nhất mà mỗi bố mẹ có thể mong muốn ở đứa con của mình, đó là sự trưởng thành. Trưởng thành, tức là ý thức cũng như chịu trách nhiệm về mọi suy nghĩ và hành vi của mình. Đây là điều mà ngay cả những bậc làm cha mẹ cũng chưa chắc đã đạt được. Trong số rất nhiều các tác phẩm cho thiếu nhi, “Biên niên sử Narnia” của C.S Lewis là tác phẩm vĩ đại nhất để nhắc nhở chúng ta về sự trưởng thành. Mặc dù, cuốn tiểu thuyết đã được Walt Disney dựng thành phim, nhưng phim chỉ khai thác được khung cảnh hoành tráng mà bỏ qua các ý nghĩa về nhân sinh trong câu chữ của C.S Lewis.







Ở Việt Nam, ít người biết đến bộ tiểu thuyết “Biên niên sử Narnia”, và cũng ít người biết được sự vĩ đại của C.S Lewis. Đây là bộ tiểu thuyết giả tưởng dành cho trẻ em thấm đẫm các yếu tố triết học, hàn lâm và tôn giáo. Tất cả các yếu tố ấy đều được ẩn trong cách suy nghĩ, cách mô tả về thế giới Narnia, và biểu tượng các nhân vật. “Biên niên sử Narnia” là một bộ 7 cuốn, với 7 cuộc phiêu lưu (con số 7 cũng mang nhiều ý nghĩa trong Kito giá), kể về hành trình của những đứa trẻ rơi vào thế giới Narnia, thế giới cổ xưa khi mà con người, vạn vật đều sống hồn nhiên và tràn ngập linh khí. Mô-típ người ở thời hiện đại rơi vào một thế giới khác là một mô-típ quen thuộc trong văn học giả tưởng phương Tây, thế nhưng C.S Lewis đã làm một điều đặc biệt khi để cho những đứa trẻ này thường xuyên qua lại giữa hai thế giới, thậm chí sống song song hai cuộc đời, với hai nhân cách. Tuy nhiên, hai nhân cách, hai cuộc đời, hai thế giới không khiến những đứa trẻ phát điên mà khiến chúng trưởng thành hơn, mạnh mẽ hơn.


Câu chuyện bắt đầu khi hai đứa trẻ Polly và Digory vì tò mò nên đã rơi vào thế giới khác. Đây là thế giới mà văn hóa cổ xưa thời đại phép thuật vẫn còn lưu giữ. Đó là câu chuyện ở thế giới khác, không phải quá khứ trên Trái Đất của chúng ta đâu nhé. Tại đây, các bạn nhỏ đã bắt gặp nữ hoàng Jadis độc ác, kiêu hãnh đầy phép thuật và bài thơ cổ đầy mời gọi:


“Lựa chọn đi, kẻ lạ thích phiêu lưu

Đánh tiếng chuông để đối mặt hiểm nguy

Hoặc băn khoăn cho tới khi phát dại

Chuyện gì sẽ xảy ra nếu ngươi làm vậy”



Sau khi cản trở mưu đồ xấu của nữ hoàng Jadis và tham vọng của ông giáo sư khùng, các bạn trẻ được chứng kiến sự ra đời của thế giới Narnia. C.S Lewis đã dành cho khoảnh khắc sáng thế này những ngôn từ đẹp nhất:


“… Sư tử vẫn tiếp tục ca và bước chân vững chãi của nó vẫn đi tới đi lui, đi qua đi lại. Có một điều đáng chú ý hơn là mỗi lần quay mình, nó lại nhích đến gần mọi người hơn một chút. Polly thấy bài hát càng lúc càng hay vì nó nghĩ nó đang bắt đầu tìm thấy sự kết nối giữa âm nhạc và những thứ đang diễn ra. Khi hàng cây linh sam thẫm phủ lên một ngọn núi cách đó chừng trăm mét, nó cảm thấy hàng cây ấy gắn liền với loạt âm thanh sâu lắng ngân dài mà Sư tử vừa ca trước đó một giây. Còn khi Sư tử phát ra chuỗi âm thanh và nhẹ hơn thì con bé không ngạc nhiên khi thấy hoa anh thảo bỗng nở bừng khắp mọi nơi. Thế nên, với cảm giác rung động khó tả, nó cảm thấy khá chắc chắn rằng mọi thứ đang xuất hiện (như nó vẫn nói về sau) “đều tỏa ra từ suy nghĩ của Sư tử” Nghe bài ca của Sư tử chính là nghe những thứ mà nó sáng tạo nên: khi nhìn ra xung quanh sẽ thấy đúng những thứ đó…”


Thế giới Narnia được tạo ra bởi suy nghĩ của Sư tử Aslan, những suy nghĩ được nối kết theo dòng bằng âm nhạc, những suy nghĩ tạo ra các rung động tuyệt đẹp. Sự sáng tạo này, xuất phát từ các thần thoại cổ xưa, đặc biệt là Kinh Thánh, đưới ngòi bút của C.S Lewis đã được đẩy lên đến bước hoàn mỹ. Và chính từ sự sáng tạo hoàn mỹ ấy, nên thế giới Narnia đã xuất hiện với vẻ tinh nguyên, hoang sơ và hài hòa một cách tự nhiên. Đó là thực tại mà những đứa trẻ trong tác phẩm của C.S Lewis hướng về, cảm thấy thực sự được sống, thực sự được biểu hiện hết mình, một nơi chúng được trưởng thành tự nhiên dưới sự bảo vệ và hướng dẫn của thủ lĩnh tinh thần Sư tử Aslan.


Bài học trưởng thành cho những đứa trẻ

Nếu có một cơ hội khác, tôi sẽ viết về các thực tại trong “Biên niên sử Narnia”, hẳn có nhiều điều thú vị để khám phá. Thế nhưng, đây lại là bài về về bài học trưởng thành. Trưởng thành không phải là chúng ta rập khuôn theo một lối mòn, để “sớm lại chiều đi lên cơ quan” hay ăn nói đạo mạo như cái thước kẻ, hay tỏ ra hoài nghi một cách thông minh. Như đã đó ở trên, trưởng thành là có ý thức và trách nhiệm về những điều mình làm. Và chỉ khi chúng ta có ý thức, có trách nhiệm với từng suy nghĩ, từng hành động, chúng ta mới thật sự có các phẩm chất tốt đẹp như dũng cảm, trí tuệ, hào hiệp, yêu thương… Chặng đường phiêu lưu của những đứa trẻ ở thế giới Narnia và vấn đề tâm lý của chúng khi đối phó với đời sống thường nhật của thế giới hiện đại chính là chặng đường va chạm và khám phá các phẩm chất tốt đẹp ẩn sâu bên trong con người đời thường của chúng.


Trên thực tế, C.S Lewis viết tập “Sư tử, phù thủy và cái tủ áo” đầu tiên, dù nó là tập thứ 2 trong bộ truyện. Bốn đứa trẻ Peter, Edmund, Susan và Lucy một lần bước vào cái tủ áo, và chúng lạc sang Narnia. Lúc này, chúng dù rất ngoan nhưng cũng không tránh được sự tham lam, ích kỷ và phù phiếm của tất cả trẻ em trên thế giới. Edmund vì tham kẹo và sợ hãi trước phù thủy tuyết nên đã phản bội anh em, Peter vì kiêu hãnh và muốn các em tuân thủ nên luôn khó tính và không chịu lắng nghe. Susan luôn hoài nghi, còn Lucy luôn tự ti. Thế nhưng, ở thế giới Narnia, khi chúng chứng kiến cảnh phù thủy tuyết tàn phá mảnh đất này, đàn áp các cư dân nơi đây, chúng đã tham gia cuộc chiến mặc dù lý do ban đầu rất ích kỷ: chiến đấu để về nhà. Tuy nhiên, khi chúng vượt qua mọi gian khó, chúng đã nhận ra rằng các phẩm chất tốt đẹp sâu bên trong mình, và cuộc chiến đã không còn là cuộc chiến tư lợi nữa. Cuộc chiến ấy đã trở thành cuộc chiến để bảo vệ cái đẹp và sự tự do. Từ bỏ sự ích kỷ và những toan tính tầm thường là bước đi đầu tiên trên con đường có ý thức và có trách nhiệm. Để có thể có ý thức và trách nhiệm, người ta cần phải tự vấn. Người ta không thể tự vấn nếu không biết nghĩ cho người khác hay điều gì đó khác ngoài bản thân mình.


Điều thực sự chấn động những đứa trẻ không phải là thế giới kỳ diệu và phép màu của Narnia mà chính là phẩm chất cao quý của Sư tử Aslan. Chúng phục thiện và dũng cảm đứng về cái thiện không phải bởi sợ uy lực hay thích thú lời nói của Aslan. Chúng hoàn toàn nói “vâng” với điều thiện, nói “vâng” với cuộc chiến đấu bảo vệ tự do và cái đẹp ở Narnia, nói “vâng” với quá trình tự vấn để trưởng thành, khi chúng chứng kiến sự hi sinh của Aslan. Chuyện là, Edmund vì dại dột, tham lam, ghen tị và sợ hãi, đã phản bội để theo phù thủy tuyết. Thế nhưng, sau khi được Aslan cảm hóa, Edmund đã quay trở về chính đạo. Thế nhưng, những gì cậu gây ra vẫn là tội lỗi, và tội lỗi phải bị trừng phạt, theo đúng luật đã được định ra từ thuở hồng hoang khai thiên lập địa. Với những ai hiểu về thuyết Nhân Qủa trong Bà La Môn giáo và Phật giáo sẽ nhận ra rằng, luật thiêng mà C.S Lewis nhắc đến khi bà chúa tuyết đòi trừng phạt Edmund chính là luật Nhân Qủa. Thế nhưng, những ai nhân danh luật Nhân Qủa để thực thi mục đích của mình, như bà chúa tuyết, thì đó chính là kẻ ác. Chỉ có sư tử Aslan, vị thần đã tạo lập nên Narnia mới đủ bao dung và thấu hiểu rằng có một luật thiêng khác còn mạnh mẽ hơn cả, đó là sự hi sinh và lòng thương cảm. Aslan đã hi sinh sự sống của mình để đổi chuộc tội cho Edmund trong lặng lẽ, không đòi hỏi báo ơn. Cảm được tấm lòng và nghĩa cử của Aslan, Edmund cùng các anh chị em của mình đã chiến đấu hết mình, thậm chí sẵn sang hi sinh vì Narnia. Phù thủy tuyết đắc thắng vì cho rằng Aslan đã qua đời tức là bà ta có pháp thuật mạnh nhất mảnh đất này. Thế nhưng, bà ta không biết rằng, khi những đứa trẻ khóc vì Aslan thì Aslan cũng phục sinh. Pháp thuật mạnh nhất Narnia chính là pháp thuật của tình yêu, đức hi sinh và sự cao cả. Nhờ đó, những gì đã bị đóng băng trong cái chết lại được hồi sinh. Đây chính là bài học trưởng thành cho những người lớn, những người dẫn đường cho trẻ nhỏ. Hãy hi sinh không vụ lợi, cùng với sự hiểu biết và tình yêu, bạn sẽ tạo ra những đứa trẻ với phẩm chất tốt đẹp.


Sau khi chiến thắng lẫy lừng và trở thành huyền thoại của Narnia, bốn đứa trẻ lại quay trở về với đời sống hiện đại của mình. Chúng nhận ra rằng đời sống của học hành, tranh giành và cười nói giả vờ ở trường thật sự là nhảm nhí. Chúng luôn nhớ về Narnia. Khí chất vua chúa trong nhân cách của chúng ở thế giới Narnia đã khiến chúng thấy khó sống hơn ở thế giới này. Cũng phải thôi. Một khi bạn nhận ra sự cao quý của mình, nhưng bạn lại phải chung sống với sự tầm thường, mọi thứ sẽ trở nên phức tạp. Sự phân biệt ấy đã tạo nên lòng ngạo mạn bên trong những đứa trẻ, trừ Lucy – cô em út. Và đó là lúc, họ phải trở về Narnia để học bài học mới. Có lúc, họ phải học bài học về sự trung thành, có lúc về sự hoài nghi, có lúc về sự kiêu ngạo… Dần dần, những đứa trẻ đã lớn lên (có người trưởng thành, có người lãng quên) và sống một đời sống bình thường. Nhưng mỗi khi Narnia cần chúng, chúng vẫn có thể trở về để cứu Narnia và để hoàn thiện mình.’


Tập truyện “Cuộc chiến cuối cùng” là tập cuối của bộ truyện. Trong tập này, một con lừa đã đóng giả Aslan để ra các quyết định kinh khủng, gây ra tình trạng hỗn loạn của Narnia. Chiến tranh khốc liệt diễn ra và Narnia bị tàn phá. Lúc này, Peter, Edmund và Lucy, dù đã trưởng thành, nhưng vẫn quay lại Narnia để cữu vãn tình hình. Thế nhưng, theo quy luật sinh diệt, Narnia đã đến ngày tàn. Thế rồi, Narnia bị phá hủy sau nhiều năm chiến tranh, loạn lạc. Sự xuất hiện của Aslan lần này không phải để cứu vãn mà để kết thúc. Sự kết thúc này bản chất là sự khải huyền trong Kinh Thánh, những gì xấu xa, nhu nhược, chết chóc sẽ bị thay thế bởi sự tươi mới và tinh nguyên. Và cái kết của câu chuyện gợi cho tôi nghĩ đến bài học sâu xa hơn thế, điều mà tôi mơ hồ cảm thấy từ sách Khải Huyền.


Giải mã bài học sâu sắc về sự bất tử


C.S Lewis ở một tác phẩm khác đã viết: “Bạn không có linh hồn, bạn là linh hồn, bạn có cơ thể” Cái gì thuộc bản thể thì tồn tại mãi mãi, cái gì là thứ bên ngoài mà mình sở hữu thì sẽ bị hủy diệt theo thời gian. Cái nhìn này của C.S Lewis được thể hiện rõ nét từ tập 5 cho đến những chương cuối của tập “Cuộc chiến cuối cùng”.


Trong câu chuyện, Lewis để cho các em nhỏ của mình chuyển đổi liên tiếp giữa thế giới hiện đại bên ngoài, nơi các em sống, và thế giới Narnia – một thế giới song song tồn tại. Đây là hình ảnh tượng trưng cho hai thực tại. Thực tại thứ nhất là thực tại của các hành động biểu hiện: thế giới của cuộc sống thường nhật, của hiện hữu, của vật chất. Thực tại thứ hai là thực tại của tinh thần, là nơi chúng ta tự do phát triển các phẩm chất tốt đẹp của mình, kết nối với những tàng thức cổ xưa của nhân loại. Hai thực tại này luôn song song tồn tại và có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Ở tập 5, “Trên con tàu hướng đến bình minh”, Lewis đã để cho Eustace – một chú bé ngỗ ngược và chỉ tin vào thế giới hiện hữu, thế giới vật chất, chỉ tin vào trường thực nghiệm, rơi vào thế giới Narnia. Eustace ban đầu là một kẻ hoài nghi, ngỗ nghịch, khắc nghiệt, hèn nhát, ích kỷ… Thế nhưng, sau khi phiêu lưu trong thế giới Narnia, cậu bé đã nhận ra sự tốt đẹp bên trong mình. Đây là một ẩn ý: chỉ khi con người ta dám xông pha vào cõi tinh thần của mình, người ta mới biết thế nào là tốt đẹp. Dường như, qua chặng đường phiêu lưu của Eustace, Lewis muốn nhẹ nhàng lên án lối dậy thực dụng, chỉ tôn thờ các giá trị vật chất của các trường thực nghiệm phương Tây đang ngày càng nở rộ ở thời của ông.


Ở chương cuối của tập “Trận chiến cuối cùng”, sự hồi sinh của Narnia đã cho chúng ta thấy thực sự Narnia là gì, thế giới chúng ta đang sống là gì. Sau khi Aslan hồi phục lại linh khí và sự sống cho Narnia, một cuộc đoàn tụ đã diễn ra giữa những đứa trẻ, hai vị vua đầu tiên của Narnia, những sinh vật đầu tiên đã giúp bốn đứa trẻ… tất cả những gì đại diện cho các phẩm chất tốt đẹp nhất của linh hồn. Lúc này, Aslan mới cho biết, những đứa trẻ cùng với gia đình đã qua đời trong một tai nạn đường sắt và giờ đây chúng đã hoàn toàn thuộc về thế giới Narnia. Điều đáng chú ý ở đây chính là tất cả những gì đẹp đẽ nhất, thân thương nhất gắn bó với lũ trẻ, với những ai đã từng biết đến Narnia đều không hề mất đi. Ngay cả ngôi nhà ở nước Anh, nơi lũ trẻ có nhiều kỷ niệm, dù đã bị phá hủy nhưng vẫn tồn tại ở đây. Qủa vậy, trong thế giới của tinh thần, không cái gì có thể mất đi, tất cả đều tồn tại nếu chúng ta nghĩ tới chúng với sự rung cảm. Đúng như thần rừng Tummus đã nói:


“Nhưng giờ đây các cậu đang nhìn vào nước Anh ở trong nước Anh, một nước Anh thật đúng như Narnia thật này vậy. Trong cái nước Anh ở phía trong ấy, không có thứ tốt đẹp nào bị hủy hoại.”


Những cuộc chiến trong Narnia cũng giống như cuộc chiến trong tâm trí của mỗi người. Chúng ta chiến đấu chống lại sự tối tăm, xấu xa, độc ác, đớn hèn từng ngày, từng giờ trong tâm trí. Chúng ta càng lớn lên, đối diện với cuộc đời nhiều hơn, cuộc chiến ấy càng trở nên gay gắt. Rồi cũng đến một lúc nào đó, cuộc chiến bên trong và cuộc chiến bên ngoài đều phải chấm dứt. Đó là sự khải huyền cho mỗi cá nhân. Sự hồi sinh chỉ cần đến bởi một suy nghĩ và rung cảm. Hồi sinh, thực chất là đánh thức tất cả những gì tốt đẹp, và tất cả điều tốt đẹp đều không hề bị hủy hoại.


Bộ sách kết thúc trong sự bắt đầu, giống như luân hồi, tất cả đều chấm hết cho khởi đầu mới. Sự bất tử nằm ở chỗ, chúng ta nhận ra một cách sâu sắc rằng sẽ không có cái gì là thực sự kết thúc. Một khi nhận thức ra điều ấy, bạn sẽ đối diện với sự kết thúc một cách bình thản. Và đó là khi bạn nhận thức được sự bất tử bên trong linh hồn của mình. Thế giới nào cũng bắt đầu và kết thúc, số phận nào cũng sinh ra rồi chết đi, nhưng linh hồn của mỗi người thì tham gia hết vòng quay này đến vòng quay khác mà không bao giờ mệt mỏi với vai trò của mình. Linh hồn của chúng ta thì bất tử và vòng luân hồi thì luôn bất diệt.


Biết tất cả những điều này có quá sức với những đứa trẻ hay không? Nếu chúng ta cho rằng những đứa trẻ không nên tiếp cận với tri thức cao siêu, chúng ta đã lầm lẫn. Thứ nhất, đây là vấn đề mang tính quy luật, tức là không có sự cao siêu hay giản lược, tức là bất cứ ai đều có thể tiếp nhận được. Thứ hai, chúng ta đã đánh giá quá thấp trẻ thơ. Chúng ta dậy dỗ trẻ thơ theo công thức, trong khi, con đường tốt nhất là đánh thức. Và muốn đánh thức tiềm năng ở trẻ đó là cho trẻ học cách chiêm nghiệm những gì mang tính quy luật. Rốt cuộc, đó là bài học trưởng thành sâu xa nhất, không phải chỉ có ý thức hay trách nhiệm, người trưởng thành là người hiểu được quy luật của mọi sự, mỉm cười và đối diện bình thản.


Hà Thủy Nguyên

Thứ Hai, 29 tháng 8, 2016

Những suy nghĩ để lại - Alice bên kia tấm gương

Nếu bạn đã từng thích mê thế giới cổ tích trong bộ phim" Alice in wonderland", nếu bạn đã từng ao ước một ngày nào đó được bước chân vào thế giới ấy thì chắc hẳn bạn không thể bỏ qua được cuốn phim kể về chặng đường tiếp theo của Alice: "Alice through the looking glass". May mắn thay, tất cả những nhân vật chúng ta yêu quý vẫn có cơ hội được hội ngộ trong bộ phim này. Chúng ta thấy sự chảy trôi của thời gian tác động lên những nhân vật ấy, có cảm giác họ cũng đã trưởng thành lên nhiều qua năm tháng. Lại được tái ngộ trong màn ảnh nhỏ, Alice và những người bạn của cô vui vì được gặp lại nhau, và tôi vui vì gặp lại họ!


Điều đầu tiên làm tôi thích thú với bộ phim này đó chính là cảnh quay và đồ họa trong phim. Có nhiều người cho rằng cảnh quay và đồ họa không được đẹp như trong Alice in wonderland. Nhưng riêng tôi chỉ cần một số cảnh thực sự ấn tượng vậy là cũng đã đủ để tôi nhớ về cảnh ở trong phim rồi.
Thật là thiếu sót lớn nếu tôi không nhắc đến Cảnh lâu đài của Thời gian và khung cảnh đồng hồ treo trên không trung. Lâu đài của Thời gian mang đúng một nét cổ kính và có màu cũ rích của gỉ sắt. Có lẽ nó là thứ mà tồn tại lâu nhất trên vùng đất Wonderland này. Cũng ít ai ngờ rằng trong lâu đài ấy lại có một cảnh tượng một thế giới đồng hồ treo lung linh rực rỡ đến vậy. Trong lâu đài thời gian, mọi thứ đều được quy ước bằng thời gian và được biểu tượng bởi đồng hồ. Những người sống, đồng hồ vàng lung linh như những mặt trời con con vàng vàng tỏa sáng. Đồng hồ vàng phải chăng là một cách thể hiện sự trân quý thời gian trong cuộc sống của mỗi người? Khi người ta mất đi, thời gian của đời người đã hết, những chiếc đồng hồ kia ngừng chạy, Thời gian cất những chiếc đồng hồ ấy vào kho báu tĩnh lặng của mình, nơi mà những linh hồn có thể được an nghỉ.

Không chỉ dừng lại ở kỹ xảo quay hay đồ họa đẹp, Alice through the looking glass cũng để lại cho người xem khá nhiều suy ngẫm.

Thời gian vốn chẳng hề độc ác hay xấu xa

Con người ta mở miệng ra thì lại nói thời gian độc ác và tàn nhẫn này kia, nhưng họ cũng quên rằng "Thời gian đã cho trước khi lấy". Thời gian ngay lúc đầu đã có vẻ bị đẩy vào vai ác, nhưng bản thân tôi lại không hề thấy vậy khi ông ta nói câu chốt, trước khi mang chiếc đồng hồ của người vừa mất vào trong nơi để đồng hồ đã chết: "Tôi hi vọng ông đã có khoảng thời gian sống ý nghĩa." Đấy, đến đây Thời gian đã nhắc người xem cần phải tận dụng thời gian sống của mình sao cho nó có ý nghĩa rồi đấy, vậy mà vẫn bị đẩy vào vai ác chứ :'(

Chúng ta vốn có tư duy rằng nhân vật chính sẽ là người đóng vai thiện mà không có sai lầm. Tuy nhiên bộ phim lại chỉ cho chúng ta thấy rằng nhân vật chính không phải làm gì cũng đúng.
Alice nhận được gợi ý từ Nữ hoàng trắng đến mượn Thời gian cỗ máy quay lại quá khứ để cứu gia đình của Hatter. Nếu lúc này để ý, bạn sẽ thấy rằng Nữ hoàng trắng như một nhân vật khá quyền lực ở mảnh đất này, và có một sức mạnh kì lạ đó là nói gì ai cũng nghe và răm rắp làm theo. Ngay cả Alice tưởng chừng là một cô gái có tư duy phản biện và không chấp nhận những điều kiện ngớ ngẩn thì cũng làm theo lời của nữ hoàng trắng mà không hề có suy nghĩ. Nếu nữ hoàng trắng có một âm mưu nào đó, Alice sẽ vô tình trở thành công cụ cho bà ta. Và ở đây thì đạo diễn cũng không đến nỗi "xoáy" thế, chỉ dừng lại ở việc bà một lòng muốn cứu Hatter :))

Tuy nhiên đến đây ta cũng có thể nhận rõ một điều rằng: Nữ hoàng trắng ở trong vai người tốt, nhưng vì sự thiếu hiểu biết của mình, việc bà làm suýt nữa phá hoại cả vùng đất Wonderland. Người ta vẫn nói "nhiệt tình + ngu dốt = phá hoại" quả cũng chả sai.

Sau khi quay lại quá khứ, Alice thực sự đã nhận được bài học vô cùng đắt giá: Cô không thể thay đổi được quá khứ, nếu thay đổi quá khứ, hiện tại và tương lai sẽ đều bị hủy diệt!
Đến đoạn này bản thân tôi lại nhớ đến phim Harry Potter khi Hermione dùng đồng hồ quay để về quá khứ cứu được Sirius Black. Vậy nên nếu bạn có ý định quay lại thời gian, hãy nhớ 1 quy luật quan trọng rằng đừng để những nhân vật của mình trong quá khứ có thể thấy được bản thân của mình hiện tại nhé :)))

Việc phân biệt tốt xấu không đơn giản như chúng ta nghĩ.

Nói chung là qua bộ phim này thì chúng ta có thể thấy được tính cách con người không phải lúc nào cũng giống nhau, luôn tốt hoặc luôn xấu. Nữ hoàng đỏ không phải ban đầu đã xấu, mà Nữ hoàng trắng không phải vốn sinh ra đã rất hiền lành tốt bụng. Qua bộ phim này, ta có cái nhìn thiện cảm hơn với Nữ hoàng đỏ, và cũng phần nào cảm thương cho bà ta.

Nữ hoàng đỏ luôn miệng kêu không ai yêu thương và quan tâm bà ta thật lòng cả, có lẽ đây là một "di chứng" để lại sau cú sốc trong quá khứ. Lúc này ta lại càng thấy rõ được tầm quan trọng của tình cảm, nó có thể biến một người bình thường trở thành một kẻ hủy diệt và độc ác. Những tổn thương về tình cảm thực sự quyết định rất lớn đến sự thay đổi của một con người. Vậy nên, nếu bạn đang có những tổn thương về tình cảm, hãy cố gắng đối mặt và giải quyết nó, đừng để nó trở thành mầm mống cho "căn bệnh" ung thư trong lòng bạn.

Điều này cũng được thể hiện rất rõ và đặc sắc trong phim Once upon a time, nơi mà cái thiện và cái ác thực sự khó phân minh. Evil Queen ban đầu cũng rất hiền lành và lương thiện, vậy mà cũng vì sự tổn thương trong tình cảm đã biến chị ta trở thành nữ hoàng độc ác, Swan từ một the Saviour cũng trở thành the Dark one chỉ trong phút chốc! Có vẻ như những nhà làm phim thời nay luôn cố gắng đưa những cái nhìn đa chiều vào truyện cổ tích cho khán giả, và tôi cho rằng đó thực sự là một tín hiệu đáng mừng :)



Gia đình là nơi tạo ra mâu thuẫn và cũng chính là nơi giải quyết được mâu thuẫn.

Điểm khác biệt với bộ phim trước đó là trong phim Alice through the looking glass, ta thấy tình cảm gia đình được đề cập đến rất nhiều và nó có vai trò tác động rất lớn đến nhân vật. Hatter từ một người vui vẻ trở nên suy tư và trầm ngâm sau khi nhìn thấy chiếc mũ đầu tay mình làm. Nút thắt tình cảm của Hatter đến từ sự hiểu lầm trong giao tiếp, sự xung đột về quan điểm giữa Hatter và cha của mình. Chính sự xung đột đó không được giải quyết đã dẫn đến sự hối hận suốt về sau của Hatter.

Nhân vật nữ hoàng đỏ và nữ hoàng trắng cũng có những xung đột tương tự. Do sự hèn nhát và cứng đầu của Nữ hoàng trắng thời nhỏ, mà đã dẫn đến việc Nữ hoàng đỏ coi Nữ hoàng trắng là kẻ thù số một của mình. Tuy nhiên chính Nữ hoàng đỏ không nhận thức được rằng, thực ra cô vẫn rất yêu thương em gái của mình. Chỉ cần một lời xin lỗi từ cô em gái ấy là cô có thể bỏ qua được tất cả những lỗi lầm của Nữ hoàng trắng trong quá khứ. Nếu Nữ hoàng trắng chịu nhận trách nhiệm sớm hơn, có lẽ cũng đã không có Nữ hoàng đỏ độc ác tồn tại.

Nhân vật Alice của chúng ta cũng có những mâu thuẫn với mẹ của mình. Cô một mực sống với con tàu của người cha trong quá khứ mà quên đi mất cuộc sống hiện tại với người mẹ. Mẹ của cô thì lại mong muốn cô sống như những người con gái bình thường trong khi Alice lại cực kì cá tính. Sự mâu thuẫn này đã làm ảnh hưởng đến mối quan hệ của 2 mẹ con từ trong tập Alice in wonderland. Sau khi Alice nhận ra được tầm quan trọng của hiện tại và gia đình, cô quyết định sẽ trân trọng hiện tại và sống với mẹ, đó cũng là lúc mẹ cô nhận ra rằng nên để con gái của mình sống cuộc đời mà nó chọn. Cuối cùng, mâu thuẫn được giải quyết, và 2 mẹ con cùng nhau rong buồm, quyết tâm sẽ hạ gục nhà Hamish!

Thực tại thật hay ảo, đó là do cách chúng ta nhìn nhận.

Nếu ở tập trước, Hatter có một nỗi sợ rằng mình chỉ là một nhân vật ảo trong thế giới của Alice thì ở tập phim này, anh chính là người đã gỡ rối tơ vò về thực tại cho cô gái: "Chúng ta sẽ gặp nhau trong những giấc mơ, ai biết đâu mới là mơ, đâu mới là thật chứ?"
Đôi lúc chúng ta cũng không nên quá quan trọng thật giả để làm gì, chỉ cần biết rằng ở thế giới ấy, ta luôn có những người bạn tốt với ta. Và chỉ cần gặp nhau trong giấc mơ hay những câu chuyện, như vậy cũng đủ hạnh phúc rồi.

Cả bộ phim gắn liền với hình ảnh tấm gương chứ không phải là một cái hố thỏ hay gì khác. Phải chăng hình ảnh tấm gương là để nhắc nhở chúng ta một lần nữa soi lại bản thân mình, soi lại những gì đã và đang xảy ra để có thể hiểu rõ bản chất của vấn đề, và để bản thân chúng ta trưởng thành hơn trong thế giới đa chiều này...

http://www.vtv16.com/phim/alice-o-xu-so-trong-guong-666/xem-phim.html

5 Common New Age Misconceptions You Need To Understand



The new-age movement, along with many of the ideologies that New Ageism encourages, has been popularized in the past few years, especially with rise of social media. I am all for self-empowerment, spiritual exploration and personal development, but some ideologies New Ageism preaches are misleading, false, and even dangerous. Here are 5 common misconceptions that need to be corrected and understood:

1) Ignore The Negative

Many people have been mislead to believe that you “give power” to something that is harmful simply by putting your attention upon it and becoming aware of it. Therefore, you should never pay attention to, or talk about anything that is “negative”.

CORRECTION: Seeing the negative for what it is creates the ability to prepare oneself against its harmful affects, and possibly even avert those affects entirely. Refusing to look at critical information just because it makes you feel scared or uncomfortable is willfully choosing to remain in a state of ignorance, and therefore to remain un-conscious.

2) Never Get Angry

Many people have adopted the notion that anger is something to overcome or shut out completely. They categorize anger into the “negative” basket, and instead promote replacing it with feelings of peace, love and light. The danger in this is it creates apathy and passivity to the injustices happening in our world today.

CORRECTION: We have a moral guidance system for a reason. For example, watching an innocent person be tortured, or seeing animals being abused will naturally evoke anger in a morally sound individual. This anger is not to be mistaken for something that needs to be shut out, but something that should be channeled productively. Righteous indignation, a form of anger when one senses injustice— can be a major motivation to create positive change in the world and should not be condemned or suppressed.



3) There Is No Right And Wrong

A common, widespread misconception is that there is no such thing as right and wrong, and that the concept of right and wrong is “dualistic” and therefore invalid. Furthermore, many who have been convinced that there is no objective right and wrong will often try to convince people (and themselves) that everything is OK.

CORRECTION: This way of thinking is known as moral relativism, and is not only delusional but dangerous. This makes people feel comfortable and justified in failing to take responsibility for their actions (or lack of actions) and the effects that has on others. There most certainly is objective right and wrong, and although we share unity as beings on the same planet or similar spiritual journeys, everything is NOT okay.


We are living in times of great injustice, violence, inequality and preventable suffering. Anyone who tries to convince you that immoral actions can not be proven immoral due to their uncertainty of ‘reality’, or claim that all things that happen are part of a ‘divine plan’ are unfortunately part of the problem.

It is common for people to twist and re-define what is right and what is wrong based on what is easy for them, what works for them, and what is most comfortable for them. However, right and wrong are not modifiable to your convenience. Immoral actions remain immoral regardless of how you view them.

4) There Is No Truth: Perception = Reality

Many people have adopted the idea that you can never really know the ultimate truth about the reality we live in. This is also known as solipsism; the ideology that only one’s own mind and perceptions are sure to exist. Another common misunderstanding passed around is, “Perception is reality” or “reality is perception.”



CORRECTION: While the solipsistic ideology is often confused for a high-minded philosophical outlook, it is really nothing more than a way for one to be vastly disconnected from reality. Objective reality DOES exist. The truth CAN be known. Ones perception and actual reality are not one in the same. How one perceives reality only changes how they perceive it— it can not and will never change what is actually taking place.



5) What You Resist Persists… So Don’t Resist

A very common belief in the New Age movement is that one should overcome ‘resistance.’ The natural urge to resist almost anything has been coined as negative or detrimental to our happiness and health amongst spiritual individuals and new-agers. We are taught to overcome resistance using spiritual techniques like meditation, yoga and acceptance. We are also taught that what we resist… will persist.

CORRECTION: Resistance itself is not a bad thing. In fact, it is necessary if we want to take back our power and control over our lives, and ensure the safety of the planet and future generations. If we do not resist evil that is destroying the good in the world, freedom, health, happiness— it will continue to. (If we do not resist the evil that is destroying freedom, health, and happiness in the world, then nothing will change or improve.)
The New Age movement has twisted and abused spiritual practices such as meditation and yoga into means to take people’s minds off the fact that they have been enslaved, and make it easy for them to just accept the current condition of the world as their lot in life. Shutting out your resistance is a good way to ensure that you will never take action to try to change the things that are wrong with the world.

How long do you think change in racial equality would have taken if people like Martin Luther King Jr. meditated their resistance away? The resistance you experience in situations is likely because something is not right. So, don’t ignore your resistance— utilize it in a productive way to bring about change. Take action.


If gone unchecked, the New Age movement can easily lead one down a road of delusional mindsets that cater to not taking responsibility for ones actions and the effect that those actions (or lack of action) have on the world! As Adyashanti said, “Enlightenment is a destructive process. It has nothing to do with becoming better or being happier. Enlightenment is the crumbling away of untruth. It’s seeing through the facade of pretence. It’s the complete eradication of everything we imagined to be true.”


While spiritual development, inner peace and a knowledge of oneself is important, it is equally as important to speak out against injustice, fight for change, and take moral responsibility for ones actions.

It is also our shared responsibility at this time to help to awaken others by continuously speaking the Truth un-apologetically, even if we feel burdened by this task, and even if it makes ALL of those involved feel uncomfortable. The truth of the current human condition and the state of world SHOULD make you feel uncomfortable. Use that discomfort to motivate yourself to create real change in the world through action.




Written by Erin Janus of www.spiritscienceandmetaphysics.com

Thứ Sáu, 26 tháng 8, 2016

Fall in love with someone...

Lessons from my own love stories...

1. You need time to understand whether it is love or just something similar to love. Do not say "I love you" just because you think he/she will be happy when listening those words. Say that when your heart beats faster, and you really want to. You need to wait until the right time, the right moment. Know yourself before you address such important sentences.

2. Do not love someone just because you need him/her. Do not let your life become dependent on other. Otherwise, you will never feel "enough" in love. You will become a jealous, controlling person that won't make your love beautiful but awful.



3. Learn how to love yourself before love someone else.
You just can have a true love with someone after you love yourself. Enjoy this beautiful life alone must be very great thing.  Try to train yourself be happy with yourself! When you know how to love yourself, if a person comes to your heart, that's good! But if there is no one, you still be happy with yourself and enjoy this life.

4. Fall in love with someone who respects you for changing because they understand that it means you’re growing. Dedicate yourself to the person who stands in awe of how you bloom, how you flourish; someone who loves you not only for who you are, but for who you have the potential to be.

5. Do not continue a relationship just because you feel sorry for him. When you can feel nothing from this relationship, it's necessary to say goodbye. Do not waste time with such ridiculous feeling, he doesn't want you feel sorry for him neither.

6. Communication is very significant in love. 

7.  Expectations of perfection are strictly forbidden.
Any relationship that’s real will not be perfect, but if you’re willing to work at it and open up, it could be everything you’ve ever dreamed of.
Your best friends and your soul mate may be far from perfect, but they are a perfect fit for you. Give them a chance to show you. When you stop expecting the people you love to be a certain way, you can start to enjoy and appreciate them for who they are. What you need to remember is that every relationship has its problems, but what makes it perfect in the end is when you wouldn’t want to be anywhere else, even when times are tough.


Các quy luật cơ bản của tư duy



Ta xét hai ví dụ suy luận:

“Mọi người đều phải chết.

Socrate là người.

Vậy, Socrate phải chết." (1)

và:

“Vợ tôi là đàn bà.

Em là đàn bà.

Vậy, em là vợ tôi” (2)

Rõ ràng suy luận thứ nhất đúng, còn suy luận thứ hai thì sai. Nhưng căn cứ vào cơ sở nào mà ta xác định được như vậy? Tất nhiên là có thể căn cứ trực tiếp vào thực tiễn. Tuy nhiên thực hiện việc đó gặp phải rất nhiều khó khăn, vì ở đây sau khi kiểm tra thấy kết luận đúng ta cũng không thể nói rằng chắc chắn suy luận đúng. Một phương pháp khác thuận tiện và hiệu quả hơn nhiều là sử dụng các quy luật của tư duy, tức là các quy luật mà môn logic nghiên cứu, để làm cơ sở cho việc xét đoán. Suy luận nào tuân theo các quy luật đó thì hợp lý, đúng; suy luận nào không tuân theo những quy luật đó thì vô lý, sai.

Như đã biết, quy luật của tư duy là những mối liên hệ bên trong, bản chất, lặp đi lặp lại trong các quá trình tư duy. Con người phát hiện ra các quy luật của tư duy thông qua hoạt động nhận thức trải nhiều thế kỷ chứ không phải bẩm sinh đã biết đến chúng. Con người biết cách vận dụng các quy luật đó, biết suy luận tuân theo các quy luật đó là nhờ quá trình học tập và rèn luyện chứ không phải có tính chất bản năng.

Trong số các quy luật của tư duy có bốn quy luật cơ bản. Các quy luật này được gọi là cơ bản vì: thứ nhất, chúng phản ánh những tính chất cơ bản nhất của các quá trình tư duy; thứ hai, vì bất cứ quá trình tư duy nào cũng phải tuân theo chúng; thứ ba, vì các quy luật khác có thể rút ra được từ chúng, nhưng không thể rút ra chúng từ các quy luật khác. Các quy luật cơ bản đó là: quy luật đồng nhất, quy luật không mâu thuẫn, quy luật triệt tam.

I. QUY LUẬT ĐỒNG NHẤT
Phát biểu: A là A. Một tư tưởng, khi đã định hình, phải luôn là chính nó trong một quá trình tư duy.

Quy luật này phản ánh tính ổn định, xác định của tư duy. Điều này có nghĩa là, trong quá trình hình thành của mình, một tư tưởng (khái niệm, phán đoán, lý thuyết, giả thuyết, …) có thể thay đổi, nhưng khi đã hình thành xong thì không được thay đổi nữa. Nếu nó vẫn tiếp tục thay đổi thì logic hình thức sẽ coi nó là tư tưởng khác. Tính ổn định như vậy là điều kiện cần cho mọi quá trình tư duy. Mặc dù tư tưởng - cũng như mọi sự vật và hiện tượng khác -, luôn luôn vận động và biến đổi, nhưng nếu tuyệt đối hóa mặt biến đổi đó của tư tưởng thì không thể nào tư duy được. Một ý kiến được nói ra phải có nội dung không đổi ít nhất là trong cùng một quá trình tranh luận, trình bày ý kiến, chứng minh quan điểm, … nghĩa là một quá trình tư duy, thì người ta mới có thể căn cứ vào nó để xét đoán đúng sai, hợp lý hay bất hợp lý, …

Nội dung của quy luật đồng nhất có thể được diễn giải cụ thể hơn thông qua những yêu cầu sau:

1. Một từ chỉ được dùng trong suy luận với một nghĩa duy nhất. Không được phép dùng một từ hoặc một biểu thức ngôn ngữ nói chung lúc thì với nghĩa này, lúc thì với nghĩa khác trong cùng một quá trình suy luận. Cũng vậy, trong cùng một quá trình suy luận một khái niệm, một tư tưởng, … không được thay đổi nội dung của mình. Nếu một tư tưởng xuất hiện nhiều lần trong một quá trình tư duy thì tất cả những lần xuất hiện đó nó phải có cùng một nội dung, phải có giá trị chân lý như nhau. Điều này có nghĩa là ở các quá trình tư duy khác nhau ta có thể dùng từ với nhiều nghĩa khác nhau, tư tưởng có thể có những giá trị chân lý khác nhau, nhưng trong cùng một quá trình suy luận thì từ ngữ bao giờ cũng được dùng với một nghĩa duy nhất, tư tưởng phải có cùng một nội dung duy nhất, phải có cùng một giá trị chân lý duy nhất. Vi phạm yêu cầu này, tư duy sẽ không nhất quán, lẫn lộn và người khác sẽ không hiểu.

2. Những từ ngữ khác nhau nhưng có nội dung như nhau, những tư tưởng tương đương với nhau về mặt logic, nghĩa là bao giờ cũng có giá trị chân lý như nhau, phải được đồng nhất với nhau trong quá trình suy luận. Vi phạm yêu cầu này, ta không rút ra được thông tin cần thiết. Ví dụ: người ta cho biết rằng, tác giả Truyện Kiều là người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, và hỏi quê quán của nhà thơ Nguyễn Du. Nếu ta không đồng nhất nhà thơ Nguyễn Du với tác giả Truyện Kiều thì ta không trả lời được cho câu hỏi này. Ta cũng không thể suy luận được.

Đây là những yêu cầu dành cho quá trình tư duy, những yêu cầu này bắt buộc phải tuân theo để tư tưởng được sáng tỏ, dễ hiểu. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta gặp rất nhiều trường hợp chúng bị vi phạm một cách vô tình hay cố ý. Ví dụ, các trò chơi chữ là những vi phạm cố ý:

Bà già đi chợ Cầu Đông



Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng ?


Thầy bói gieo quẻ nói rằng:

Lợi thì có lợi, nhưng răng chẳng còn.

Ở đây, cùng một chữ “lợi” nhưng được hiểu theo hai nghĩa khác nhau.

Yêu cầu của quy luật này rất đơn giản. Tuy nhiên, để tuân thủ yêu cầu này không phải là dễ. Đồng nhất những cái gì và không đồng nhất những cái gì là dựa vào sự hiểu biết, dựa vào trình độ văn hóa của chủ thể tư duy, và dựa vào bối cảnh tư duy. Bởi vì, xét cho cùng, quy luật này đòi hỏi phải đồng nhất những thứ không đồng nhất. Chính điều này giải thích tại sao khi nghe một câu chuyện vui thì nhiều người bật cười nhưng một số người khác thì không. Người ta cười vì đã đồng nhất được những cái mà người kể muốn đồng nhất, còn nếu không làm được điều đó thì người ta không cười. Như trong ví dụ sau đây:

Lớp đang học về truyền thuyết Mỵ Châu - Trọng Thủy, Cu Tèo ngủ gật. Thấy vậy, thầy giáo hỏi: “Tèo, ai đã lấy cắp nỏ của An Dương Vương ?”. Giật mình, Cu Tèo vội đáp: “Thưa thầy con không lấy, con không lấy, bạn nào lấy con không biết…”.

Thầy giáo chán nản, đem câu chuyện kểlại cho hiệu trưởng nghe. Hiệu trưởng nghe xong, trầm ngâm một lúc rồi bảo: “Thôi được, chuyện đâu còn có đó, trẻ con ấy mà. Thầy xem thử cái nỏ đó giá bao nhiêu để trường bỏ tiền ra mua một cái khác thay thế. Rõ khổ, đồ dùng dạy học thì đang thiếu tứ bề!”.

Câu chuyện được đem kể lại ở sở giáo dục và đào tạo. Những người có mặt bò lăn ra cười, chỉ một người không cười, đó là kế toán trưởng. Mọi người ngạc nhiên nhìn bà ta, bà ta nói: “Tôi mà là giám đốc sở thì tôi sẽ cách chức tay hiệu trưởng đó. Tiền đâu ra mà cái gì cũng mua, cái gì cũng chi như vậy?…”

(Theo báo “Người lao động”)

Quy luật đồng nhất là quy luật của tư duy hình thức, không nên nhầm lẫn rằng đây là quy luật của hiện thực khách quan bên ngoài tư duy. Quy luật đồng nhất, vì vậy, không dẫn đến việc phủ định nguyên lý biện chứng là sự vật và hiện tượng luôn luôn vận động và biến đổi, trong cùng một thời điểm một sự vật vừa chính là nó vừa không phải là nó. Tư duy hình thức phản ánh hiện thực khách quan một cách lý tưởng[1], phản ánh hiện thực khách quan trong sự đứng im tương đối của nó, bỏ qua sự vận động và biến đổi của nó, phản ánh các sự vật và hiện tượng trong sự tách rời ra khỏi các sự vật và hiện tượng khác. Một sự vật của hiện thực khách quan có thể được tư duy phản ánh từ nhiều góc độ khác nhau, tạo nên những đối tượng khác nhau trong tư duy. Nếu hai sự vật trong hiện thực khách quan A và B có chung một tính chất nào đó thì tư duy có thể phản ánh tính chất chung đó ở hai sự vật đã nêu và tạo thành hai đối tượng khác nhau trong tư duy. Hai đối tượng này của tư duy đồng nhất với nhau. Chính vì vậy mà mặc dù trong hiện thực khách quan không hề có hai sự vật hoàn toàn giống nhau, nhưng ta vẫn có thể đồng nhất chúng với nhau. Có thể làm như vậy là bởi ta chỉ đồng nhất chúng trong một mối quan hệ nhất định mà thôi. Ví dụ, Nguyễn Trãi và Nguyễn Du là hai người khác nhau, tuy nhiên, khi tư duy phản ánh các ông từ góc độ là nhà thơ thì tạo thành hai đối tượng đồng nhất với nhau trong tư duy.

Vì tư duy phản ánh hiện thực khách quan nên thông qua quy luật đồng nhất của tư duy ta có thể nói về ba loại đồng nhất khác nhau: đồng nhất tư tưởng với tư tưởng, đồng nhất tư tưởng với đối tượng trong hiện thực và đồng nhất đối tượng trong hiện thực với đối tượng trong hiện thực. Cần lưu ý rằng ở đây thông qua sự đồng nhất tư tưởng với tư tưởng ta mới có thể đồng nhất đối tượng trong hiện thực với đối tượng trong hiện thực. Điều này làm cho phạm vi ứng dụng của quy luật này được mở rộng hơn nhiều.

Ta xét vài ví dụ:

Ví dụ 1. Trước Tòa bà Minh nói “Tôi đồng ý bán nhà giúp con trả nợ” nhưng thư ký phiên tòa ghi “Tôi đồng ý bán nhà trả nợ giúp con”. Sai lầm này của thư ký phiên tòa đã làm cho việc thi hành án sau này gặp nhiều khó khăn.[2]

Ví dụ 2. Có diễn giả nói: “Hình như trên đời có luật bù trừ. Người ta bị mù một mắt thì mắt kia sẽ tinh hơn. Bị điếc một tai thì tai kia sẽ nghe rõ hơn, ....”. Nghe vậy, có thính giả kêu lên: “Rất đúng, tôi cũng thấy rằng nếu một người cụt chân thì y như rằng chân kia sẽ dài hơn”. Câu nói này của anh ta làm cho cả thính phòng cười ồ lên. Anh ta đã không nhận thấy rằng khi diễn giả nói “…mắt kia sẽ tinh hơn”, “…tai kia sẽ nghe rõ hơn” là tác giả so sánh với mắt và tai bình thường, còn anh ta thì so sánh “chân kia” với chân cụt.

Quy luật đồng nhất là quy luật vô cùng quan trọng của logic hình thức. Nếu như các quy luật khác có thể đúng trong một số hệ logic hình thức và không đúng trong một số hệ logic hình thức khác thì cho đến nay chưa ai xây dựng được hệ logic hình thức nào có giá trị mà trong đó quy luật đồng nhất không đúng.

II. QUY LUẬT KHÔNG MÂU THUẪN
Phát biểu: Hai phán đoán, nhận định mâu thuẫn nhau, trái ngược nhau không thể nào cùng đúng. Trong hai phán đoán, nhận định như vậy có ít nhất là một phán đoán, nhận định sai.

Quy luật này phản ánh tính chất không mâu thuẫn của quá trình tư duy. Mâu thuẫn phá vỡ quá trình tư duy nên trong tư duy nhất định phải tránh nó. Tư duy của chúng ta không được chứa mâu thuẫn vì tư duy phản ánh hiện thực khách quan, mà trong hiện thực khách quan thì ở mỗi thời điểm không thể có trường hợp một đối tượng vừa có, lại vừa không có một tính chất nhất định nào đó. Ví dụ, tại một thời điểm, một bông hồng cụ thể không thể nào vừa có màu đỏ, vừa không có màu đỏ. Cần lưu ý rằng, mâu thuẫn mà chúng ta nói đến ở đây là mâu thuẫn hình thức, chứ không phải là mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn hình thức không thể có được vì, như đã biết, logic hình thức nghiên cứu tư duy với tư cách là sự phản ánh các sự vật và hiện tượng của hiện thực khách quan trong sự đứng im của nó, nghĩa là phản ánh hiện thực khách quan theo kiểu lý tưởng hóa.

Nội dung của quy luật không mâu thuẫn được diễn giải cụ thể hơn qua các yêu cầu sau đây:

1. Quá trình tư duy không được chứa mâu thuẫn trực tiếp. Cụ thể là không được cùng một lúc vừa khẳng định vừa phủ định một điều gì đó. Ví dụ, không thể vừa khẳng định rằng Liên minh châu Âu sẽ có được bản hiến pháp của mình, lại vừa khẳng định rằng Liên minh châu Âu sẽ không thể thông qua được một bản hiến pháp như thế.

Trong thực tế đôi khi ta gặp những câu nói có vẻ như chứa mâu thuẫn trực tiếp nhưng vẫn thấy chấp nhận được. Ví dụ, câu “Giải vô địch bóng đá quốc gia V-leage vừa qua vừa đạt, vừa chưa đạt” nhìn bề ngoài như chứa mâu thuẫn trực tiếp, nhưng lại vẫn chấp nhận được. Vậy phải chăng ở đây ta đã bỏ qua yêu cầu của quy luật không mâu thuẫn? Thật ra thì trong trường hợp này yêu cầu của luật không mâu thuẫn vẫn được tôn trọng, vì từ “đạt” trong câu nói trên được hiểu theo nhiều cách khác nhau, và vì vậy ở đây không có mâu thuẫn. Nếu tiếp tục làm rõ ý kiến của mình thì người đưa ra câu nói đó sẽ giải thích đã đạt ở mặt nào và không đạt ở mặt nào (đó là các mặt khác nhau). Nghĩa là anh ta sẽ cho biết hiểu theo nghĩa nào thì chuyến tập huấn được coi là đạt và hiểu theo cách nào thì không đạt.

2. Quá trình tư duy không được chứa mâu thuẫn gián tiếp. Cụ thể là không được khẳng định (hay phủ định) một vấn đề nào đó rồi lại phủ định (hay khẳng định) các hệ quả của nó. Ví dụ, nếu khẳng định rằng lý thuyết tương đối hẹp của Einstein là đúng thì không thểphủnhận công thức E = mc2 thể hiện mối liên hệ giữa năng lượng và khối lượng của ông.

Nếu như mâu thuẫn trực tiếp dễ được nhận thấy, và vì vậy dễ tránh, thì mâu thuẫn gián tiếp khó nhận thấy hơn, và vì vậy khó tránh hơn nhiều.

Ví dụ 3. Lời nói của Đức Phật với quỷ Mala: “(…) Ta không cần danh vọng, Mala, mi hãy thuyết những điều đó với những kẻ hám danh vọng. (…) Thành đạt, danh tiếng, danh dựvà vinh quang chỉ là sự hư ảo, sự thắng lợi của kẻ này là thất bại của người kia. (…) Ta trải cơ mạn xa để chiến đấu với người đây. Ta thà chết vinh trong trận chiến, còn hơn sống nhục trong đầu hàng.”[3] Trong lời nói này ta thấy câu cuối cùng “ta thà chết vinh trong trận chiến, còn hơn sống nhục trong đầu hàng” mâu thuẫn với những câu ở phía trên.

Khi rèn luyện tư duy nhiều ta sẽ nâng cao được khả năng phát hiện mâu thuẫn trong các suy luận của chính mình và của người khác, phát hiện thấy những cái không ổn trong các suy luận đó. Khi phát hiện rằng suy luận “có điều gì đó không ổn”, nghĩa là phát hiện ra khả năng chứa mâu thuẫn gián tiếp của nó, ta có thể tiến hành đặt liên tiếp các câu hỏi để người đưa ra suy luận trả lời và bằng cách đó chỉ ra mâu thuẫn trực tiếp.

Ví dụ 4. Khi thấy lời khai của người bị tình nghi phạm tội có chứa điều gì đó không ổn, cán bộ điều tra sẽ đặt ra cho người đó hàng loạt câu hỏi cho đến khi người đó không trả lời được nữa, vì thấy mình đã gặp mâu thuẫn rõ ràng, trực tiếp.

Ví dụ 5. Trong câu chuyện tiếu lâm về con rắn vuông, khi nghe chồng kể về một con rắn khổng lồ, chị vợ đã liên tục tỏ ý nghi ngờ về chiều dài của nó. Điều này làm cho anh chồng liên tục rút ngắn chiều dài của con rắn, và cuối cùng là có được con rắn vuông. Như vậy, mâu thuẫn chưa lộ rõ hẳn giữa sự tồn tại của con rắn khổng lồ trong câu chuyện của người chồng với thực tế đến lúc này đã trở thành mâu thuẫn rõ ràng giữa sự tồn tại của con rắn vuông với thực tế.

Câu “nói dối hay cùng” chính là nói về những trường hợp như thế này.

Nắm vững nội dung và áp dụng thành thạo quy luật không mâu thuẫn giúp ta trình bày tư tưởng nhất quán và dễ dàng phát hiện các biểu hiện ngụy biện trong suy luận.

III. QUY LUẬT TRIỆT TAM

Phát biểu: Một phán đoán, nhận định hoặc đúng hoặc sai chứ không thể có một giá trị thứ ba nào khác.

Đây là quy luật đặc trưng của logic hai giá trị - logic thông thường mà ta vẫn sử dụng.

Với một phán đoán, nhận định nhất định, quy luật triệt tam không cho biết nó đúng hay sai, nhưng cho biết rằng nó chỉ có thể hoặc đúng, hoặc sai chứ không thể có giá trị nào khác. Ví dụ, ta chưa biết câu nói “Có người ngoài Trái đất đến thăm Trái đất” đúng hay sai, nhưng quy luật triệt tam khẳng định rằng hoặc nó đúng, hoặc nó sai!

Quy luật triệt tam không cho phép người ta tránh né vấn đề khi trả lời câu hỏi. Nó không cho phép trả lời lấp lửng, nước đôi, mà đòi hỏi câu trả lời dứt khoát.

Ví dụ, khi một thanh niên đi kiếm việc làm được hỏi có biết ngoại ngữ hay không thì anh ta chỉ có thể trả lời “có” hoặc “không”, tất cả các câu trả lời khác đều không có giá trị.

Trong thực tiễn, người ta ứng dụng quy luật triệt tam để chứng minh bằng phản chứng.

Đôi khi ta gặp những câu nói rất sâu sắc mà biểu hiện trực tiếp là quy luật triệt tam. Ví dụ, cuối bộ sách Tam quốc diễn nghĩa, sau khi kể chuyện nhà Tấn thống nhất Trung Quốc, tác giả La Quán Trung đã viết, đại ý: Lịch sử các nước cứ như vậy, hết hợp thì tan, hết tan rồi lại hợp. Hay, cuối bộ sách Hồng lâu mộng, sau khi kể vợ Bảo Ngọc sinh con trai và gia đình họ Giả bắt đầu hưng thịnh trở lại, tác giả Tào Tuyết Cần viết, đại ý: Ở đời cứ như vậy, hết thịnh rồi thì suy, hết suy rồi lại thịnh.

Một số tác giả cho rằng quy luật triệt tam là hệ quả của quy luật đồng nhất. Đây là một sự nhầm lẫn. Ta có thể bác bỏ điều đó hết sức dễ dàng. Thật vậy, nếu quy luật triệt tam là hệ quả của quy luật đồng nhất thì ở bất cứ chỗ nào mà quy luật đồng nhất đúng thì quy luật triệt tam cũng phải đúng. Nhưng rõ ràng là trong các hệ logic ba giá trị quy luật đồng nhất vẫn đúng, trong khi đó thì quy luật triệt tam không đúng. Trong những suy luận nhằm rút ra quy luật triệt tam từ quy luật đồng nhất mà thỉnh thoảng ta gặp trong các tài liệu logic đã chứa sẵn vòng tròn logic. Thật vậy, những suy luận kiểu này được thực hiện trong khuôn khổ của logic hai giá trị và sử dụng các tính chất của logic đó. Tuy nhiên sở dĩ logic hai giá trị là logic hai giá trị là vì nó tuân thủ quy luật triệt tam. Như vậy có nghĩa là những tính chất của logic hai giá trị được sử dụng để rút ra quy luật triệt tam từ quy luật đồng nhất phụ thuộc vào chính quy luật triệt tam!

IV. QUY LUẬT LÝ DO ĐẦY ĐỦ

Phát biểu: Một tư tưởng chỉ có giá trị khi nó có đầy đủ các cơ sở.
Khác với ba quy luật trên, - những quy luật được Aristote tìm ra từ thời cổ đại -, quy luật này được Leibnitz phát hiện ở thế kỷ thứ XVIII.

Quy luật lý do đầy đủ đòi hỏi các tư tưởng phải được đưa ra trên những cơ sở nhất định. Tư duy của chúng ta cấu thành từ một chuỗi các tư tưởng như vậy. Những tư tưởng đi trước làm cơ sở cho những tư tưởng đi sau. Chỉ trong trường hợp đó thì tư duy mới được coi là chặt chẽ, có logic. Ngược lại, tư tưởng sẽ lủng củng. Người nghe sẽ thấy người nói nhảy từ vấn đề này qua vấn đề khác một cách tùy tiện. Trong thực tế, đòi hỏi làm một việc gì đó hoặc trình bày một vấn đề nào đó theo một trình tự nhất định chính là đòi hỏi thỏa mãn quy luật này.

Quy luật lý do đầy đủ dựa trên một quy luật rất cơ bản của tự nhiên là quy luật nhân - quả: Mọi sự vật và hiện tượng đều có nguyên nhân của nó. Trong cùng một điều kiện, cùng một nguyên nhân sẽ đưa đến cùng một kết quả. Nếu như tư tưởng phản ánh hiện tượng thì cơ sở của nó là cái phản ánh nguyên nhân của hiện tượng đó. Trong tự nhiên, nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả. Nhưng trong tư duy ta lại có thể biết hiện tượng trước rồi mới đi tìm nguyên nhân sau, nên thứ tự ở đây không giống trong tự nhiên.

Nguyên nhân mà chúng ta nói đến ở đây là nguyên nhân hiện thực, chứ không phải là nguyên nhân siêu nhiên, thần thánh, ma quỷ.

Ví dụ 6. Một người lái taxi nào đó luôn có thu nhập cao hơn so với nhiều người khác, mặc dầu anh ta làm việc trong cùng một điều kiện như họ. Khi đó, người ta hay nói rằng số anh ta may mắn. Nhưng nếu quan niệm như vậy thì ta sẽ không cải thiện được tình hình của mình. Ngược lại, nếu hiểu rằng hiện tượng này cũng phải có nguyên nhân của nó, và nguyên nhân đó là nguyên nhân vật chất, nghĩa là nguyên nhân có thể hiểu và ứng dụng được, thì ta sẽ tìm hiểu, phân tích những yếu tố đưa lại thành công cho người kia, rồi tìm cách để áp dụng, và nhờ đó có thể nâng cao thu nhập của mình.

Tuân thủ nghiêm các quy luật cơ bản trình bày trên đây sẽ giúp chúng ta suy nghĩ và trình bày tư tưởng của mình một cách rõ ràng, chính xác, ngắn gọn, mạch lạc, dễ hiểu. Ứng dụng các quy luật này chúng ta cũng dễ dàng phát hiện các sai lầm trong suy luận của người khác và của chính mình để phản bác, để vạch trần sự ngụy biện, hoặc để tránh sai lầm.

- Phạm Đình Nghiệm-