Thứ Tư, 31 tháng 8, 2016

Biên niên sử Narnia - Bài học về sự trưởng thành



Nhiều bạn bè có hỏi tôi về những cuốn sách có thể cho con cái họ đọc. Tôi hỏi họ rằng họ muốn biến con cái họ sau này thành người như thế nào? Thế là họ im lặng. Ai cũng muốn điều tốt nhất cho con cái mình, nhưng điều tốt nhất ấy là gì, đó là một câu hỏi khó. Tôi nghĩ, điều tốt nhất mà mỗi bố mẹ có thể mong muốn ở đứa con của mình, đó là sự trưởng thành. Trưởng thành, tức là ý thức cũng như chịu trách nhiệm về mọi suy nghĩ và hành vi của mình. Đây là điều mà ngay cả những bậc làm cha mẹ cũng chưa chắc đã đạt được. Trong số rất nhiều các tác phẩm cho thiếu nhi, “Biên niên sử Narnia” của C.S Lewis là tác phẩm vĩ đại nhất để nhắc nhở chúng ta về sự trưởng thành. Mặc dù, cuốn tiểu thuyết đã được Walt Disney dựng thành phim, nhưng phim chỉ khai thác được khung cảnh hoành tráng mà bỏ qua các ý nghĩa về nhân sinh trong câu chữ của C.S Lewis.







Ở Việt Nam, ít người biết đến bộ tiểu thuyết “Biên niên sử Narnia”, và cũng ít người biết được sự vĩ đại của C.S Lewis. Đây là bộ tiểu thuyết giả tưởng dành cho trẻ em thấm đẫm các yếu tố triết học, hàn lâm và tôn giáo. Tất cả các yếu tố ấy đều được ẩn trong cách suy nghĩ, cách mô tả về thế giới Narnia, và biểu tượng các nhân vật. “Biên niên sử Narnia” là một bộ 7 cuốn, với 7 cuộc phiêu lưu (con số 7 cũng mang nhiều ý nghĩa trong Kito giá), kể về hành trình của những đứa trẻ rơi vào thế giới Narnia, thế giới cổ xưa khi mà con người, vạn vật đều sống hồn nhiên và tràn ngập linh khí. Mô-típ người ở thời hiện đại rơi vào một thế giới khác là một mô-típ quen thuộc trong văn học giả tưởng phương Tây, thế nhưng C.S Lewis đã làm một điều đặc biệt khi để cho những đứa trẻ này thường xuyên qua lại giữa hai thế giới, thậm chí sống song song hai cuộc đời, với hai nhân cách. Tuy nhiên, hai nhân cách, hai cuộc đời, hai thế giới không khiến những đứa trẻ phát điên mà khiến chúng trưởng thành hơn, mạnh mẽ hơn.


Câu chuyện bắt đầu khi hai đứa trẻ Polly và Digory vì tò mò nên đã rơi vào thế giới khác. Đây là thế giới mà văn hóa cổ xưa thời đại phép thuật vẫn còn lưu giữ. Đó là câu chuyện ở thế giới khác, không phải quá khứ trên Trái Đất của chúng ta đâu nhé. Tại đây, các bạn nhỏ đã bắt gặp nữ hoàng Jadis độc ác, kiêu hãnh đầy phép thuật và bài thơ cổ đầy mời gọi:


“Lựa chọn đi, kẻ lạ thích phiêu lưu

Đánh tiếng chuông để đối mặt hiểm nguy

Hoặc băn khoăn cho tới khi phát dại

Chuyện gì sẽ xảy ra nếu ngươi làm vậy”



Sau khi cản trở mưu đồ xấu của nữ hoàng Jadis và tham vọng của ông giáo sư khùng, các bạn trẻ được chứng kiến sự ra đời của thế giới Narnia. C.S Lewis đã dành cho khoảnh khắc sáng thế này những ngôn từ đẹp nhất:


“… Sư tử vẫn tiếp tục ca và bước chân vững chãi của nó vẫn đi tới đi lui, đi qua đi lại. Có một điều đáng chú ý hơn là mỗi lần quay mình, nó lại nhích đến gần mọi người hơn một chút. Polly thấy bài hát càng lúc càng hay vì nó nghĩ nó đang bắt đầu tìm thấy sự kết nối giữa âm nhạc và những thứ đang diễn ra. Khi hàng cây linh sam thẫm phủ lên một ngọn núi cách đó chừng trăm mét, nó cảm thấy hàng cây ấy gắn liền với loạt âm thanh sâu lắng ngân dài mà Sư tử vừa ca trước đó một giây. Còn khi Sư tử phát ra chuỗi âm thanh và nhẹ hơn thì con bé không ngạc nhiên khi thấy hoa anh thảo bỗng nở bừng khắp mọi nơi. Thế nên, với cảm giác rung động khó tả, nó cảm thấy khá chắc chắn rằng mọi thứ đang xuất hiện (như nó vẫn nói về sau) “đều tỏa ra từ suy nghĩ của Sư tử” Nghe bài ca của Sư tử chính là nghe những thứ mà nó sáng tạo nên: khi nhìn ra xung quanh sẽ thấy đúng những thứ đó…”


Thế giới Narnia được tạo ra bởi suy nghĩ của Sư tử Aslan, những suy nghĩ được nối kết theo dòng bằng âm nhạc, những suy nghĩ tạo ra các rung động tuyệt đẹp. Sự sáng tạo này, xuất phát từ các thần thoại cổ xưa, đặc biệt là Kinh Thánh, đưới ngòi bút của C.S Lewis đã được đẩy lên đến bước hoàn mỹ. Và chính từ sự sáng tạo hoàn mỹ ấy, nên thế giới Narnia đã xuất hiện với vẻ tinh nguyên, hoang sơ và hài hòa một cách tự nhiên. Đó là thực tại mà những đứa trẻ trong tác phẩm của C.S Lewis hướng về, cảm thấy thực sự được sống, thực sự được biểu hiện hết mình, một nơi chúng được trưởng thành tự nhiên dưới sự bảo vệ và hướng dẫn của thủ lĩnh tinh thần Sư tử Aslan.


Bài học trưởng thành cho những đứa trẻ

Nếu có một cơ hội khác, tôi sẽ viết về các thực tại trong “Biên niên sử Narnia”, hẳn có nhiều điều thú vị để khám phá. Thế nhưng, đây lại là bài về về bài học trưởng thành. Trưởng thành không phải là chúng ta rập khuôn theo một lối mòn, để “sớm lại chiều đi lên cơ quan” hay ăn nói đạo mạo như cái thước kẻ, hay tỏ ra hoài nghi một cách thông minh. Như đã đó ở trên, trưởng thành là có ý thức và trách nhiệm về những điều mình làm. Và chỉ khi chúng ta có ý thức, có trách nhiệm với từng suy nghĩ, từng hành động, chúng ta mới thật sự có các phẩm chất tốt đẹp như dũng cảm, trí tuệ, hào hiệp, yêu thương… Chặng đường phiêu lưu của những đứa trẻ ở thế giới Narnia và vấn đề tâm lý của chúng khi đối phó với đời sống thường nhật của thế giới hiện đại chính là chặng đường va chạm và khám phá các phẩm chất tốt đẹp ẩn sâu bên trong con người đời thường của chúng.


Trên thực tế, C.S Lewis viết tập “Sư tử, phù thủy và cái tủ áo” đầu tiên, dù nó là tập thứ 2 trong bộ truyện. Bốn đứa trẻ Peter, Edmund, Susan và Lucy một lần bước vào cái tủ áo, và chúng lạc sang Narnia. Lúc này, chúng dù rất ngoan nhưng cũng không tránh được sự tham lam, ích kỷ và phù phiếm của tất cả trẻ em trên thế giới. Edmund vì tham kẹo và sợ hãi trước phù thủy tuyết nên đã phản bội anh em, Peter vì kiêu hãnh và muốn các em tuân thủ nên luôn khó tính và không chịu lắng nghe. Susan luôn hoài nghi, còn Lucy luôn tự ti. Thế nhưng, ở thế giới Narnia, khi chúng chứng kiến cảnh phù thủy tuyết tàn phá mảnh đất này, đàn áp các cư dân nơi đây, chúng đã tham gia cuộc chiến mặc dù lý do ban đầu rất ích kỷ: chiến đấu để về nhà. Tuy nhiên, khi chúng vượt qua mọi gian khó, chúng đã nhận ra rằng các phẩm chất tốt đẹp sâu bên trong mình, và cuộc chiến đã không còn là cuộc chiến tư lợi nữa. Cuộc chiến ấy đã trở thành cuộc chiến để bảo vệ cái đẹp và sự tự do. Từ bỏ sự ích kỷ và những toan tính tầm thường là bước đi đầu tiên trên con đường có ý thức và có trách nhiệm. Để có thể có ý thức và trách nhiệm, người ta cần phải tự vấn. Người ta không thể tự vấn nếu không biết nghĩ cho người khác hay điều gì đó khác ngoài bản thân mình.


Điều thực sự chấn động những đứa trẻ không phải là thế giới kỳ diệu và phép màu của Narnia mà chính là phẩm chất cao quý của Sư tử Aslan. Chúng phục thiện và dũng cảm đứng về cái thiện không phải bởi sợ uy lực hay thích thú lời nói của Aslan. Chúng hoàn toàn nói “vâng” với điều thiện, nói “vâng” với cuộc chiến đấu bảo vệ tự do và cái đẹp ở Narnia, nói “vâng” với quá trình tự vấn để trưởng thành, khi chúng chứng kiến sự hi sinh của Aslan. Chuyện là, Edmund vì dại dột, tham lam, ghen tị và sợ hãi, đã phản bội để theo phù thủy tuyết. Thế nhưng, sau khi được Aslan cảm hóa, Edmund đã quay trở về chính đạo. Thế nhưng, những gì cậu gây ra vẫn là tội lỗi, và tội lỗi phải bị trừng phạt, theo đúng luật đã được định ra từ thuở hồng hoang khai thiên lập địa. Với những ai hiểu về thuyết Nhân Qủa trong Bà La Môn giáo và Phật giáo sẽ nhận ra rằng, luật thiêng mà C.S Lewis nhắc đến khi bà chúa tuyết đòi trừng phạt Edmund chính là luật Nhân Qủa. Thế nhưng, những ai nhân danh luật Nhân Qủa để thực thi mục đích của mình, như bà chúa tuyết, thì đó chính là kẻ ác. Chỉ có sư tử Aslan, vị thần đã tạo lập nên Narnia mới đủ bao dung và thấu hiểu rằng có một luật thiêng khác còn mạnh mẽ hơn cả, đó là sự hi sinh và lòng thương cảm. Aslan đã hi sinh sự sống của mình để đổi chuộc tội cho Edmund trong lặng lẽ, không đòi hỏi báo ơn. Cảm được tấm lòng và nghĩa cử của Aslan, Edmund cùng các anh chị em của mình đã chiến đấu hết mình, thậm chí sẵn sang hi sinh vì Narnia. Phù thủy tuyết đắc thắng vì cho rằng Aslan đã qua đời tức là bà ta có pháp thuật mạnh nhất mảnh đất này. Thế nhưng, bà ta không biết rằng, khi những đứa trẻ khóc vì Aslan thì Aslan cũng phục sinh. Pháp thuật mạnh nhất Narnia chính là pháp thuật của tình yêu, đức hi sinh và sự cao cả. Nhờ đó, những gì đã bị đóng băng trong cái chết lại được hồi sinh. Đây chính là bài học trưởng thành cho những người lớn, những người dẫn đường cho trẻ nhỏ. Hãy hi sinh không vụ lợi, cùng với sự hiểu biết và tình yêu, bạn sẽ tạo ra những đứa trẻ với phẩm chất tốt đẹp.


Sau khi chiến thắng lẫy lừng và trở thành huyền thoại của Narnia, bốn đứa trẻ lại quay trở về với đời sống hiện đại của mình. Chúng nhận ra rằng đời sống của học hành, tranh giành và cười nói giả vờ ở trường thật sự là nhảm nhí. Chúng luôn nhớ về Narnia. Khí chất vua chúa trong nhân cách của chúng ở thế giới Narnia đã khiến chúng thấy khó sống hơn ở thế giới này. Cũng phải thôi. Một khi bạn nhận ra sự cao quý của mình, nhưng bạn lại phải chung sống với sự tầm thường, mọi thứ sẽ trở nên phức tạp. Sự phân biệt ấy đã tạo nên lòng ngạo mạn bên trong những đứa trẻ, trừ Lucy – cô em út. Và đó là lúc, họ phải trở về Narnia để học bài học mới. Có lúc, họ phải học bài học về sự trung thành, có lúc về sự hoài nghi, có lúc về sự kiêu ngạo… Dần dần, những đứa trẻ đã lớn lên (có người trưởng thành, có người lãng quên) và sống một đời sống bình thường. Nhưng mỗi khi Narnia cần chúng, chúng vẫn có thể trở về để cứu Narnia và để hoàn thiện mình.’


Tập truyện “Cuộc chiến cuối cùng” là tập cuối của bộ truyện. Trong tập này, một con lừa đã đóng giả Aslan để ra các quyết định kinh khủng, gây ra tình trạng hỗn loạn của Narnia. Chiến tranh khốc liệt diễn ra và Narnia bị tàn phá. Lúc này, Peter, Edmund và Lucy, dù đã trưởng thành, nhưng vẫn quay lại Narnia để cữu vãn tình hình. Thế nhưng, theo quy luật sinh diệt, Narnia đã đến ngày tàn. Thế rồi, Narnia bị phá hủy sau nhiều năm chiến tranh, loạn lạc. Sự xuất hiện của Aslan lần này không phải để cứu vãn mà để kết thúc. Sự kết thúc này bản chất là sự khải huyền trong Kinh Thánh, những gì xấu xa, nhu nhược, chết chóc sẽ bị thay thế bởi sự tươi mới và tinh nguyên. Và cái kết của câu chuyện gợi cho tôi nghĩ đến bài học sâu xa hơn thế, điều mà tôi mơ hồ cảm thấy từ sách Khải Huyền.


Giải mã bài học sâu sắc về sự bất tử


C.S Lewis ở một tác phẩm khác đã viết: “Bạn không có linh hồn, bạn là linh hồn, bạn có cơ thể” Cái gì thuộc bản thể thì tồn tại mãi mãi, cái gì là thứ bên ngoài mà mình sở hữu thì sẽ bị hủy diệt theo thời gian. Cái nhìn này của C.S Lewis được thể hiện rõ nét từ tập 5 cho đến những chương cuối của tập “Cuộc chiến cuối cùng”.


Trong câu chuyện, Lewis để cho các em nhỏ của mình chuyển đổi liên tiếp giữa thế giới hiện đại bên ngoài, nơi các em sống, và thế giới Narnia – một thế giới song song tồn tại. Đây là hình ảnh tượng trưng cho hai thực tại. Thực tại thứ nhất là thực tại của các hành động biểu hiện: thế giới của cuộc sống thường nhật, của hiện hữu, của vật chất. Thực tại thứ hai là thực tại của tinh thần, là nơi chúng ta tự do phát triển các phẩm chất tốt đẹp của mình, kết nối với những tàng thức cổ xưa của nhân loại. Hai thực tại này luôn song song tồn tại và có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Ở tập 5, “Trên con tàu hướng đến bình minh”, Lewis đã để cho Eustace – một chú bé ngỗ ngược và chỉ tin vào thế giới hiện hữu, thế giới vật chất, chỉ tin vào trường thực nghiệm, rơi vào thế giới Narnia. Eustace ban đầu là một kẻ hoài nghi, ngỗ nghịch, khắc nghiệt, hèn nhát, ích kỷ… Thế nhưng, sau khi phiêu lưu trong thế giới Narnia, cậu bé đã nhận ra sự tốt đẹp bên trong mình. Đây là một ẩn ý: chỉ khi con người ta dám xông pha vào cõi tinh thần của mình, người ta mới biết thế nào là tốt đẹp. Dường như, qua chặng đường phiêu lưu của Eustace, Lewis muốn nhẹ nhàng lên án lối dậy thực dụng, chỉ tôn thờ các giá trị vật chất của các trường thực nghiệm phương Tây đang ngày càng nở rộ ở thời của ông.


Ở chương cuối của tập “Trận chiến cuối cùng”, sự hồi sinh của Narnia đã cho chúng ta thấy thực sự Narnia là gì, thế giới chúng ta đang sống là gì. Sau khi Aslan hồi phục lại linh khí và sự sống cho Narnia, một cuộc đoàn tụ đã diễn ra giữa những đứa trẻ, hai vị vua đầu tiên của Narnia, những sinh vật đầu tiên đã giúp bốn đứa trẻ… tất cả những gì đại diện cho các phẩm chất tốt đẹp nhất của linh hồn. Lúc này, Aslan mới cho biết, những đứa trẻ cùng với gia đình đã qua đời trong một tai nạn đường sắt và giờ đây chúng đã hoàn toàn thuộc về thế giới Narnia. Điều đáng chú ý ở đây chính là tất cả những gì đẹp đẽ nhất, thân thương nhất gắn bó với lũ trẻ, với những ai đã từng biết đến Narnia đều không hề mất đi. Ngay cả ngôi nhà ở nước Anh, nơi lũ trẻ có nhiều kỷ niệm, dù đã bị phá hủy nhưng vẫn tồn tại ở đây. Qủa vậy, trong thế giới của tinh thần, không cái gì có thể mất đi, tất cả đều tồn tại nếu chúng ta nghĩ tới chúng với sự rung cảm. Đúng như thần rừng Tummus đã nói:


“Nhưng giờ đây các cậu đang nhìn vào nước Anh ở trong nước Anh, một nước Anh thật đúng như Narnia thật này vậy. Trong cái nước Anh ở phía trong ấy, không có thứ tốt đẹp nào bị hủy hoại.”


Những cuộc chiến trong Narnia cũng giống như cuộc chiến trong tâm trí của mỗi người. Chúng ta chiến đấu chống lại sự tối tăm, xấu xa, độc ác, đớn hèn từng ngày, từng giờ trong tâm trí. Chúng ta càng lớn lên, đối diện với cuộc đời nhiều hơn, cuộc chiến ấy càng trở nên gay gắt. Rồi cũng đến một lúc nào đó, cuộc chiến bên trong và cuộc chiến bên ngoài đều phải chấm dứt. Đó là sự khải huyền cho mỗi cá nhân. Sự hồi sinh chỉ cần đến bởi một suy nghĩ và rung cảm. Hồi sinh, thực chất là đánh thức tất cả những gì tốt đẹp, và tất cả điều tốt đẹp đều không hề bị hủy hoại.


Bộ sách kết thúc trong sự bắt đầu, giống như luân hồi, tất cả đều chấm hết cho khởi đầu mới. Sự bất tử nằm ở chỗ, chúng ta nhận ra một cách sâu sắc rằng sẽ không có cái gì là thực sự kết thúc. Một khi nhận thức ra điều ấy, bạn sẽ đối diện với sự kết thúc một cách bình thản. Và đó là khi bạn nhận thức được sự bất tử bên trong linh hồn của mình. Thế giới nào cũng bắt đầu và kết thúc, số phận nào cũng sinh ra rồi chết đi, nhưng linh hồn của mỗi người thì tham gia hết vòng quay này đến vòng quay khác mà không bao giờ mệt mỏi với vai trò của mình. Linh hồn của chúng ta thì bất tử và vòng luân hồi thì luôn bất diệt.


Biết tất cả những điều này có quá sức với những đứa trẻ hay không? Nếu chúng ta cho rằng những đứa trẻ không nên tiếp cận với tri thức cao siêu, chúng ta đã lầm lẫn. Thứ nhất, đây là vấn đề mang tính quy luật, tức là không có sự cao siêu hay giản lược, tức là bất cứ ai đều có thể tiếp nhận được. Thứ hai, chúng ta đã đánh giá quá thấp trẻ thơ. Chúng ta dậy dỗ trẻ thơ theo công thức, trong khi, con đường tốt nhất là đánh thức. Và muốn đánh thức tiềm năng ở trẻ đó là cho trẻ học cách chiêm nghiệm những gì mang tính quy luật. Rốt cuộc, đó là bài học trưởng thành sâu xa nhất, không phải chỉ có ý thức hay trách nhiệm, người trưởng thành là người hiểu được quy luật của mọi sự, mỉm cười và đối diện bình thản.


Hà Thủy Nguyên

Thứ Hai, 29 tháng 8, 2016

Những suy nghĩ để lại - Alice bên kia tấm gương

Nếu bạn đã từng thích mê thế giới cổ tích trong bộ phim" Alice in wonderland", nếu bạn đã từng ao ước một ngày nào đó được bước chân vào thế giới ấy thì chắc hẳn bạn không thể bỏ qua được cuốn phim kể về chặng đường tiếp theo của Alice: "Alice through the looking glass". May mắn thay, tất cả những nhân vật chúng ta yêu quý vẫn có cơ hội được hội ngộ trong bộ phim này. Chúng ta thấy sự chảy trôi của thời gian tác động lên những nhân vật ấy, có cảm giác họ cũng đã trưởng thành lên nhiều qua năm tháng. Lại được tái ngộ trong màn ảnh nhỏ, Alice và những người bạn của cô vui vì được gặp lại nhau, và tôi vui vì gặp lại họ!


Điều đầu tiên làm tôi thích thú với bộ phim này đó chính là cảnh quay và đồ họa trong phim. Có nhiều người cho rằng cảnh quay và đồ họa không được đẹp như trong Alice in wonderland. Nhưng riêng tôi chỉ cần một số cảnh thực sự ấn tượng vậy là cũng đã đủ để tôi nhớ về cảnh ở trong phim rồi.
Thật là thiếu sót lớn nếu tôi không nhắc đến Cảnh lâu đài của Thời gian và khung cảnh đồng hồ treo trên không trung. Lâu đài của Thời gian mang đúng một nét cổ kính và có màu cũ rích của gỉ sắt. Có lẽ nó là thứ mà tồn tại lâu nhất trên vùng đất Wonderland này. Cũng ít ai ngờ rằng trong lâu đài ấy lại có một cảnh tượng một thế giới đồng hồ treo lung linh rực rỡ đến vậy. Trong lâu đài thời gian, mọi thứ đều được quy ước bằng thời gian và được biểu tượng bởi đồng hồ. Những người sống, đồng hồ vàng lung linh như những mặt trời con con vàng vàng tỏa sáng. Đồng hồ vàng phải chăng là một cách thể hiện sự trân quý thời gian trong cuộc sống của mỗi người? Khi người ta mất đi, thời gian của đời người đã hết, những chiếc đồng hồ kia ngừng chạy, Thời gian cất những chiếc đồng hồ ấy vào kho báu tĩnh lặng của mình, nơi mà những linh hồn có thể được an nghỉ.

Không chỉ dừng lại ở kỹ xảo quay hay đồ họa đẹp, Alice through the looking glass cũng để lại cho người xem khá nhiều suy ngẫm.

Thời gian vốn chẳng hề độc ác hay xấu xa

Con người ta mở miệng ra thì lại nói thời gian độc ác và tàn nhẫn này kia, nhưng họ cũng quên rằng "Thời gian đã cho trước khi lấy". Thời gian ngay lúc đầu đã có vẻ bị đẩy vào vai ác, nhưng bản thân tôi lại không hề thấy vậy khi ông ta nói câu chốt, trước khi mang chiếc đồng hồ của người vừa mất vào trong nơi để đồng hồ đã chết: "Tôi hi vọng ông đã có khoảng thời gian sống ý nghĩa." Đấy, đến đây Thời gian đã nhắc người xem cần phải tận dụng thời gian sống của mình sao cho nó có ý nghĩa rồi đấy, vậy mà vẫn bị đẩy vào vai ác chứ :'(

Chúng ta vốn có tư duy rằng nhân vật chính sẽ là người đóng vai thiện mà không có sai lầm. Tuy nhiên bộ phim lại chỉ cho chúng ta thấy rằng nhân vật chính không phải làm gì cũng đúng.
Alice nhận được gợi ý từ Nữ hoàng trắng đến mượn Thời gian cỗ máy quay lại quá khứ để cứu gia đình của Hatter. Nếu lúc này để ý, bạn sẽ thấy rằng Nữ hoàng trắng như một nhân vật khá quyền lực ở mảnh đất này, và có một sức mạnh kì lạ đó là nói gì ai cũng nghe và răm rắp làm theo. Ngay cả Alice tưởng chừng là một cô gái có tư duy phản biện và không chấp nhận những điều kiện ngớ ngẩn thì cũng làm theo lời của nữ hoàng trắng mà không hề có suy nghĩ. Nếu nữ hoàng trắng có một âm mưu nào đó, Alice sẽ vô tình trở thành công cụ cho bà ta. Và ở đây thì đạo diễn cũng không đến nỗi "xoáy" thế, chỉ dừng lại ở việc bà một lòng muốn cứu Hatter :))

Tuy nhiên đến đây ta cũng có thể nhận rõ một điều rằng: Nữ hoàng trắng ở trong vai người tốt, nhưng vì sự thiếu hiểu biết của mình, việc bà làm suýt nữa phá hoại cả vùng đất Wonderland. Người ta vẫn nói "nhiệt tình + ngu dốt = phá hoại" quả cũng chả sai.

Sau khi quay lại quá khứ, Alice thực sự đã nhận được bài học vô cùng đắt giá: Cô không thể thay đổi được quá khứ, nếu thay đổi quá khứ, hiện tại và tương lai sẽ đều bị hủy diệt!
Đến đoạn này bản thân tôi lại nhớ đến phim Harry Potter khi Hermione dùng đồng hồ quay để về quá khứ cứu được Sirius Black. Vậy nên nếu bạn có ý định quay lại thời gian, hãy nhớ 1 quy luật quan trọng rằng đừng để những nhân vật của mình trong quá khứ có thể thấy được bản thân của mình hiện tại nhé :)))

Việc phân biệt tốt xấu không đơn giản như chúng ta nghĩ.

Nói chung là qua bộ phim này thì chúng ta có thể thấy được tính cách con người không phải lúc nào cũng giống nhau, luôn tốt hoặc luôn xấu. Nữ hoàng đỏ không phải ban đầu đã xấu, mà Nữ hoàng trắng không phải vốn sinh ra đã rất hiền lành tốt bụng. Qua bộ phim này, ta có cái nhìn thiện cảm hơn với Nữ hoàng đỏ, và cũng phần nào cảm thương cho bà ta.

Nữ hoàng đỏ luôn miệng kêu không ai yêu thương và quan tâm bà ta thật lòng cả, có lẽ đây là một "di chứng" để lại sau cú sốc trong quá khứ. Lúc này ta lại càng thấy rõ được tầm quan trọng của tình cảm, nó có thể biến một người bình thường trở thành một kẻ hủy diệt và độc ác. Những tổn thương về tình cảm thực sự quyết định rất lớn đến sự thay đổi của một con người. Vậy nên, nếu bạn đang có những tổn thương về tình cảm, hãy cố gắng đối mặt và giải quyết nó, đừng để nó trở thành mầm mống cho "căn bệnh" ung thư trong lòng bạn.

Điều này cũng được thể hiện rất rõ và đặc sắc trong phim Once upon a time, nơi mà cái thiện và cái ác thực sự khó phân minh. Evil Queen ban đầu cũng rất hiền lành và lương thiện, vậy mà cũng vì sự tổn thương trong tình cảm đã biến chị ta trở thành nữ hoàng độc ác, Swan từ một the Saviour cũng trở thành the Dark one chỉ trong phút chốc! Có vẻ như những nhà làm phim thời nay luôn cố gắng đưa những cái nhìn đa chiều vào truyện cổ tích cho khán giả, và tôi cho rằng đó thực sự là một tín hiệu đáng mừng :)



Gia đình là nơi tạo ra mâu thuẫn và cũng chính là nơi giải quyết được mâu thuẫn.

Điểm khác biệt với bộ phim trước đó là trong phim Alice through the looking glass, ta thấy tình cảm gia đình được đề cập đến rất nhiều và nó có vai trò tác động rất lớn đến nhân vật. Hatter từ một người vui vẻ trở nên suy tư và trầm ngâm sau khi nhìn thấy chiếc mũ đầu tay mình làm. Nút thắt tình cảm của Hatter đến từ sự hiểu lầm trong giao tiếp, sự xung đột về quan điểm giữa Hatter và cha của mình. Chính sự xung đột đó không được giải quyết đã dẫn đến sự hối hận suốt về sau của Hatter.

Nhân vật nữ hoàng đỏ và nữ hoàng trắng cũng có những xung đột tương tự. Do sự hèn nhát và cứng đầu của Nữ hoàng trắng thời nhỏ, mà đã dẫn đến việc Nữ hoàng đỏ coi Nữ hoàng trắng là kẻ thù số một của mình. Tuy nhiên chính Nữ hoàng đỏ không nhận thức được rằng, thực ra cô vẫn rất yêu thương em gái của mình. Chỉ cần một lời xin lỗi từ cô em gái ấy là cô có thể bỏ qua được tất cả những lỗi lầm của Nữ hoàng trắng trong quá khứ. Nếu Nữ hoàng trắng chịu nhận trách nhiệm sớm hơn, có lẽ cũng đã không có Nữ hoàng đỏ độc ác tồn tại.

Nhân vật Alice của chúng ta cũng có những mâu thuẫn với mẹ của mình. Cô một mực sống với con tàu của người cha trong quá khứ mà quên đi mất cuộc sống hiện tại với người mẹ. Mẹ của cô thì lại mong muốn cô sống như những người con gái bình thường trong khi Alice lại cực kì cá tính. Sự mâu thuẫn này đã làm ảnh hưởng đến mối quan hệ của 2 mẹ con từ trong tập Alice in wonderland. Sau khi Alice nhận ra được tầm quan trọng của hiện tại và gia đình, cô quyết định sẽ trân trọng hiện tại và sống với mẹ, đó cũng là lúc mẹ cô nhận ra rằng nên để con gái của mình sống cuộc đời mà nó chọn. Cuối cùng, mâu thuẫn được giải quyết, và 2 mẹ con cùng nhau rong buồm, quyết tâm sẽ hạ gục nhà Hamish!

Thực tại thật hay ảo, đó là do cách chúng ta nhìn nhận.

Nếu ở tập trước, Hatter có một nỗi sợ rằng mình chỉ là một nhân vật ảo trong thế giới của Alice thì ở tập phim này, anh chính là người đã gỡ rối tơ vò về thực tại cho cô gái: "Chúng ta sẽ gặp nhau trong những giấc mơ, ai biết đâu mới là mơ, đâu mới là thật chứ?"
Đôi lúc chúng ta cũng không nên quá quan trọng thật giả để làm gì, chỉ cần biết rằng ở thế giới ấy, ta luôn có những người bạn tốt với ta. Và chỉ cần gặp nhau trong giấc mơ hay những câu chuyện, như vậy cũng đủ hạnh phúc rồi.

Cả bộ phim gắn liền với hình ảnh tấm gương chứ không phải là một cái hố thỏ hay gì khác. Phải chăng hình ảnh tấm gương là để nhắc nhở chúng ta một lần nữa soi lại bản thân mình, soi lại những gì đã và đang xảy ra để có thể hiểu rõ bản chất của vấn đề, và để bản thân chúng ta trưởng thành hơn trong thế giới đa chiều này...

http://www.vtv16.com/phim/alice-o-xu-so-trong-guong-666/xem-phim.html

5 Common New Age Misconceptions You Need To Understand



The new-age movement, along with many of the ideologies that New Ageism encourages, has been popularized in the past few years, especially with rise of social media. I am all for self-empowerment, spiritual exploration and personal development, but some ideologies New Ageism preaches are misleading, false, and even dangerous. Here are 5 common misconceptions that need to be corrected and understood:

1) Ignore The Negative

Many people have been mislead to believe that you “give power” to something that is harmful simply by putting your attention upon it and becoming aware of it. Therefore, you should never pay attention to, or talk about anything that is “negative”.

CORRECTION: Seeing the negative for what it is creates the ability to prepare oneself against its harmful affects, and possibly even avert those affects entirely. Refusing to look at critical information just because it makes you feel scared or uncomfortable is willfully choosing to remain in a state of ignorance, and therefore to remain un-conscious.

2) Never Get Angry

Many people have adopted the notion that anger is something to overcome or shut out completely. They categorize anger into the “negative” basket, and instead promote replacing it with feelings of peace, love and light. The danger in this is it creates apathy and passivity to the injustices happening in our world today.

CORRECTION: We have a moral guidance system for a reason. For example, watching an innocent person be tortured, or seeing animals being abused will naturally evoke anger in a morally sound individual. This anger is not to be mistaken for something that needs to be shut out, but something that should be channeled productively. Righteous indignation, a form of anger when one senses injustice— can be a major motivation to create positive change in the world and should not be condemned or suppressed.



3) There Is No Right And Wrong

A common, widespread misconception is that there is no such thing as right and wrong, and that the concept of right and wrong is “dualistic” and therefore invalid. Furthermore, many who have been convinced that there is no objective right and wrong will often try to convince people (and themselves) that everything is OK.

CORRECTION: This way of thinking is known as moral relativism, and is not only delusional but dangerous. This makes people feel comfortable and justified in failing to take responsibility for their actions (or lack of actions) and the effects that has on others. There most certainly is objective right and wrong, and although we share unity as beings on the same planet or similar spiritual journeys, everything is NOT okay.


We are living in times of great injustice, violence, inequality and preventable suffering. Anyone who tries to convince you that immoral actions can not be proven immoral due to their uncertainty of ‘reality’, or claim that all things that happen are part of a ‘divine plan’ are unfortunately part of the problem.

It is common for people to twist and re-define what is right and what is wrong based on what is easy for them, what works for them, and what is most comfortable for them. However, right and wrong are not modifiable to your convenience. Immoral actions remain immoral regardless of how you view them.

4) There Is No Truth: Perception = Reality

Many people have adopted the idea that you can never really know the ultimate truth about the reality we live in. This is also known as solipsism; the ideology that only one’s own mind and perceptions are sure to exist. Another common misunderstanding passed around is, “Perception is reality” or “reality is perception.”



CORRECTION: While the solipsistic ideology is often confused for a high-minded philosophical outlook, it is really nothing more than a way for one to be vastly disconnected from reality. Objective reality DOES exist. The truth CAN be known. Ones perception and actual reality are not one in the same. How one perceives reality only changes how they perceive it— it can not and will never change what is actually taking place.



5) What You Resist Persists… So Don’t Resist

A very common belief in the New Age movement is that one should overcome ‘resistance.’ The natural urge to resist almost anything has been coined as negative or detrimental to our happiness and health amongst spiritual individuals and new-agers. We are taught to overcome resistance using spiritual techniques like meditation, yoga and acceptance. We are also taught that what we resist… will persist.

CORRECTION: Resistance itself is not a bad thing. In fact, it is necessary if we want to take back our power and control over our lives, and ensure the safety of the planet and future generations. If we do not resist evil that is destroying the good in the world, freedom, health, happiness— it will continue to. (If we do not resist the evil that is destroying freedom, health, and happiness in the world, then nothing will change or improve.)
The New Age movement has twisted and abused spiritual practices such as meditation and yoga into means to take people’s minds off the fact that they have been enslaved, and make it easy for them to just accept the current condition of the world as their lot in life. Shutting out your resistance is a good way to ensure that you will never take action to try to change the things that are wrong with the world.

How long do you think change in racial equality would have taken if people like Martin Luther King Jr. meditated their resistance away? The resistance you experience in situations is likely because something is not right. So, don’t ignore your resistance— utilize it in a productive way to bring about change. Take action.


If gone unchecked, the New Age movement can easily lead one down a road of delusional mindsets that cater to not taking responsibility for ones actions and the effect that those actions (or lack of action) have on the world! As Adyashanti said, “Enlightenment is a destructive process. It has nothing to do with becoming better or being happier. Enlightenment is the crumbling away of untruth. It’s seeing through the facade of pretence. It’s the complete eradication of everything we imagined to be true.”


While spiritual development, inner peace and a knowledge of oneself is important, it is equally as important to speak out against injustice, fight for change, and take moral responsibility for ones actions.

It is also our shared responsibility at this time to help to awaken others by continuously speaking the Truth un-apologetically, even if we feel burdened by this task, and even if it makes ALL of those involved feel uncomfortable. The truth of the current human condition and the state of world SHOULD make you feel uncomfortable. Use that discomfort to motivate yourself to create real change in the world through action.




Written by Erin Janus of www.spiritscienceandmetaphysics.com

Thứ Sáu, 26 tháng 8, 2016

Fall in love with someone...

Lessons from my own love stories...

1. You need time to understand whether it is love or just something similar to love. Do not say "I love you" just because you think he/she will be happy when listening those words. Say that when your heart beats faster, and you really want to. You need to wait until the right time, the right moment. Know yourself before you address such important sentences.

2. Do not love someone just because you need him/her. Do not let your life become dependent on other. Otherwise, you will never feel "enough" in love. You will become a jealous, controlling person that won't make your love beautiful but awful.



3. Learn how to love yourself before love someone else.
You just can have a true love with someone after you love yourself. Enjoy this beautiful life alone must be very great thing.  Try to train yourself be happy with yourself! When you know how to love yourself, if a person comes to your heart, that's good! But if there is no one, you still be happy with yourself and enjoy this life.

4. Fall in love with someone who respects you for changing because they understand that it means you’re growing. Dedicate yourself to the person who stands in awe of how you bloom, how you flourish; someone who loves you not only for who you are, but for who you have the potential to be.

5. Do not continue a relationship just because you feel sorry for him. When you can feel nothing from this relationship, it's necessary to say goodbye. Do not waste time with such ridiculous feeling, he doesn't want you feel sorry for him neither.

6. Communication is very significant in love. 

7.  Expectations of perfection are strictly forbidden.
Any relationship that’s real will not be perfect, but if you’re willing to work at it and open up, it could be everything you’ve ever dreamed of.
Your best friends and your soul mate may be far from perfect, but they are a perfect fit for you. Give them a chance to show you. When you stop expecting the people you love to be a certain way, you can start to enjoy and appreciate them for who they are. What you need to remember is that every relationship has its problems, but what makes it perfect in the end is when you wouldn’t want to be anywhere else, even when times are tough.


Các quy luật cơ bản của tư duy



Ta xét hai ví dụ suy luận:

“Mọi người đều phải chết.

Socrate là người.

Vậy, Socrate phải chết." (1)

và:

“Vợ tôi là đàn bà.

Em là đàn bà.

Vậy, em là vợ tôi” (2)

Rõ ràng suy luận thứ nhất đúng, còn suy luận thứ hai thì sai. Nhưng căn cứ vào cơ sở nào mà ta xác định được như vậy? Tất nhiên là có thể căn cứ trực tiếp vào thực tiễn. Tuy nhiên thực hiện việc đó gặp phải rất nhiều khó khăn, vì ở đây sau khi kiểm tra thấy kết luận đúng ta cũng không thể nói rằng chắc chắn suy luận đúng. Một phương pháp khác thuận tiện và hiệu quả hơn nhiều là sử dụng các quy luật của tư duy, tức là các quy luật mà môn logic nghiên cứu, để làm cơ sở cho việc xét đoán. Suy luận nào tuân theo các quy luật đó thì hợp lý, đúng; suy luận nào không tuân theo những quy luật đó thì vô lý, sai.

Như đã biết, quy luật của tư duy là những mối liên hệ bên trong, bản chất, lặp đi lặp lại trong các quá trình tư duy. Con người phát hiện ra các quy luật của tư duy thông qua hoạt động nhận thức trải nhiều thế kỷ chứ không phải bẩm sinh đã biết đến chúng. Con người biết cách vận dụng các quy luật đó, biết suy luận tuân theo các quy luật đó là nhờ quá trình học tập và rèn luyện chứ không phải có tính chất bản năng.

Trong số các quy luật của tư duy có bốn quy luật cơ bản. Các quy luật này được gọi là cơ bản vì: thứ nhất, chúng phản ánh những tính chất cơ bản nhất của các quá trình tư duy; thứ hai, vì bất cứ quá trình tư duy nào cũng phải tuân theo chúng; thứ ba, vì các quy luật khác có thể rút ra được từ chúng, nhưng không thể rút ra chúng từ các quy luật khác. Các quy luật cơ bản đó là: quy luật đồng nhất, quy luật không mâu thuẫn, quy luật triệt tam.

I. QUY LUẬT ĐỒNG NHẤT
Phát biểu: A là A. Một tư tưởng, khi đã định hình, phải luôn là chính nó trong một quá trình tư duy.

Quy luật này phản ánh tính ổn định, xác định của tư duy. Điều này có nghĩa là, trong quá trình hình thành của mình, một tư tưởng (khái niệm, phán đoán, lý thuyết, giả thuyết, …) có thể thay đổi, nhưng khi đã hình thành xong thì không được thay đổi nữa. Nếu nó vẫn tiếp tục thay đổi thì logic hình thức sẽ coi nó là tư tưởng khác. Tính ổn định như vậy là điều kiện cần cho mọi quá trình tư duy. Mặc dù tư tưởng - cũng như mọi sự vật và hiện tượng khác -, luôn luôn vận động và biến đổi, nhưng nếu tuyệt đối hóa mặt biến đổi đó của tư tưởng thì không thể nào tư duy được. Một ý kiến được nói ra phải có nội dung không đổi ít nhất là trong cùng một quá trình tranh luận, trình bày ý kiến, chứng minh quan điểm, … nghĩa là một quá trình tư duy, thì người ta mới có thể căn cứ vào nó để xét đoán đúng sai, hợp lý hay bất hợp lý, …

Nội dung của quy luật đồng nhất có thể được diễn giải cụ thể hơn thông qua những yêu cầu sau:

1. Một từ chỉ được dùng trong suy luận với một nghĩa duy nhất. Không được phép dùng một từ hoặc một biểu thức ngôn ngữ nói chung lúc thì với nghĩa này, lúc thì với nghĩa khác trong cùng một quá trình suy luận. Cũng vậy, trong cùng một quá trình suy luận một khái niệm, một tư tưởng, … không được thay đổi nội dung của mình. Nếu một tư tưởng xuất hiện nhiều lần trong một quá trình tư duy thì tất cả những lần xuất hiện đó nó phải có cùng một nội dung, phải có giá trị chân lý như nhau. Điều này có nghĩa là ở các quá trình tư duy khác nhau ta có thể dùng từ với nhiều nghĩa khác nhau, tư tưởng có thể có những giá trị chân lý khác nhau, nhưng trong cùng một quá trình suy luận thì từ ngữ bao giờ cũng được dùng với một nghĩa duy nhất, tư tưởng phải có cùng một nội dung duy nhất, phải có cùng một giá trị chân lý duy nhất. Vi phạm yêu cầu này, tư duy sẽ không nhất quán, lẫn lộn và người khác sẽ không hiểu.

2. Những từ ngữ khác nhau nhưng có nội dung như nhau, những tư tưởng tương đương với nhau về mặt logic, nghĩa là bao giờ cũng có giá trị chân lý như nhau, phải được đồng nhất với nhau trong quá trình suy luận. Vi phạm yêu cầu này, ta không rút ra được thông tin cần thiết. Ví dụ: người ta cho biết rằng, tác giả Truyện Kiều là người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, và hỏi quê quán của nhà thơ Nguyễn Du. Nếu ta không đồng nhất nhà thơ Nguyễn Du với tác giả Truyện Kiều thì ta không trả lời được cho câu hỏi này. Ta cũng không thể suy luận được.

Đây là những yêu cầu dành cho quá trình tư duy, những yêu cầu này bắt buộc phải tuân theo để tư tưởng được sáng tỏ, dễ hiểu. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta gặp rất nhiều trường hợp chúng bị vi phạm một cách vô tình hay cố ý. Ví dụ, các trò chơi chữ là những vi phạm cố ý:

Bà già đi chợ Cầu Đông



Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng ?


Thầy bói gieo quẻ nói rằng:

Lợi thì có lợi, nhưng răng chẳng còn.

Ở đây, cùng một chữ “lợi” nhưng được hiểu theo hai nghĩa khác nhau.

Yêu cầu của quy luật này rất đơn giản. Tuy nhiên, để tuân thủ yêu cầu này không phải là dễ. Đồng nhất những cái gì và không đồng nhất những cái gì là dựa vào sự hiểu biết, dựa vào trình độ văn hóa của chủ thể tư duy, và dựa vào bối cảnh tư duy. Bởi vì, xét cho cùng, quy luật này đòi hỏi phải đồng nhất những thứ không đồng nhất. Chính điều này giải thích tại sao khi nghe một câu chuyện vui thì nhiều người bật cười nhưng một số người khác thì không. Người ta cười vì đã đồng nhất được những cái mà người kể muốn đồng nhất, còn nếu không làm được điều đó thì người ta không cười. Như trong ví dụ sau đây:

Lớp đang học về truyền thuyết Mỵ Châu - Trọng Thủy, Cu Tèo ngủ gật. Thấy vậy, thầy giáo hỏi: “Tèo, ai đã lấy cắp nỏ của An Dương Vương ?”. Giật mình, Cu Tèo vội đáp: “Thưa thầy con không lấy, con không lấy, bạn nào lấy con không biết…”.

Thầy giáo chán nản, đem câu chuyện kểlại cho hiệu trưởng nghe. Hiệu trưởng nghe xong, trầm ngâm một lúc rồi bảo: “Thôi được, chuyện đâu còn có đó, trẻ con ấy mà. Thầy xem thử cái nỏ đó giá bao nhiêu để trường bỏ tiền ra mua một cái khác thay thế. Rõ khổ, đồ dùng dạy học thì đang thiếu tứ bề!”.

Câu chuyện được đem kể lại ở sở giáo dục và đào tạo. Những người có mặt bò lăn ra cười, chỉ một người không cười, đó là kế toán trưởng. Mọi người ngạc nhiên nhìn bà ta, bà ta nói: “Tôi mà là giám đốc sở thì tôi sẽ cách chức tay hiệu trưởng đó. Tiền đâu ra mà cái gì cũng mua, cái gì cũng chi như vậy?…”

(Theo báo “Người lao động”)

Quy luật đồng nhất là quy luật của tư duy hình thức, không nên nhầm lẫn rằng đây là quy luật của hiện thực khách quan bên ngoài tư duy. Quy luật đồng nhất, vì vậy, không dẫn đến việc phủ định nguyên lý biện chứng là sự vật và hiện tượng luôn luôn vận động và biến đổi, trong cùng một thời điểm một sự vật vừa chính là nó vừa không phải là nó. Tư duy hình thức phản ánh hiện thực khách quan một cách lý tưởng[1], phản ánh hiện thực khách quan trong sự đứng im tương đối của nó, bỏ qua sự vận động và biến đổi của nó, phản ánh các sự vật và hiện tượng trong sự tách rời ra khỏi các sự vật và hiện tượng khác. Một sự vật của hiện thực khách quan có thể được tư duy phản ánh từ nhiều góc độ khác nhau, tạo nên những đối tượng khác nhau trong tư duy. Nếu hai sự vật trong hiện thực khách quan A và B có chung một tính chất nào đó thì tư duy có thể phản ánh tính chất chung đó ở hai sự vật đã nêu và tạo thành hai đối tượng khác nhau trong tư duy. Hai đối tượng này của tư duy đồng nhất với nhau. Chính vì vậy mà mặc dù trong hiện thực khách quan không hề có hai sự vật hoàn toàn giống nhau, nhưng ta vẫn có thể đồng nhất chúng với nhau. Có thể làm như vậy là bởi ta chỉ đồng nhất chúng trong một mối quan hệ nhất định mà thôi. Ví dụ, Nguyễn Trãi và Nguyễn Du là hai người khác nhau, tuy nhiên, khi tư duy phản ánh các ông từ góc độ là nhà thơ thì tạo thành hai đối tượng đồng nhất với nhau trong tư duy.

Vì tư duy phản ánh hiện thực khách quan nên thông qua quy luật đồng nhất của tư duy ta có thể nói về ba loại đồng nhất khác nhau: đồng nhất tư tưởng với tư tưởng, đồng nhất tư tưởng với đối tượng trong hiện thực và đồng nhất đối tượng trong hiện thực với đối tượng trong hiện thực. Cần lưu ý rằng ở đây thông qua sự đồng nhất tư tưởng với tư tưởng ta mới có thể đồng nhất đối tượng trong hiện thực với đối tượng trong hiện thực. Điều này làm cho phạm vi ứng dụng của quy luật này được mở rộng hơn nhiều.

Ta xét vài ví dụ:

Ví dụ 1. Trước Tòa bà Minh nói “Tôi đồng ý bán nhà giúp con trả nợ” nhưng thư ký phiên tòa ghi “Tôi đồng ý bán nhà trả nợ giúp con”. Sai lầm này của thư ký phiên tòa đã làm cho việc thi hành án sau này gặp nhiều khó khăn.[2]

Ví dụ 2. Có diễn giả nói: “Hình như trên đời có luật bù trừ. Người ta bị mù một mắt thì mắt kia sẽ tinh hơn. Bị điếc một tai thì tai kia sẽ nghe rõ hơn, ....”. Nghe vậy, có thính giả kêu lên: “Rất đúng, tôi cũng thấy rằng nếu một người cụt chân thì y như rằng chân kia sẽ dài hơn”. Câu nói này của anh ta làm cho cả thính phòng cười ồ lên. Anh ta đã không nhận thấy rằng khi diễn giả nói “…mắt kia sẽ tinh hơn”, “…tai kia sẽ nghe rõ hơn” là tác giả so sánh với mắt và tai bình thường, còn anh ta thì so sánh “chân kia” với chân cụt.

Quy luật đồng nhất là quy luật vô cùng quan trọng của logic hình thức. Nếu như các quy luật khác có thể đúng trong một số hệ logic hình thức và không đúng trong một số hệ logic hình thức khác thì cho đến nay chưa ai xây dựng được hệ logic hình thức nào có giá trị mà trong đó quy luật đồng nhất không đúng.

II. QUY LUẬT KHÔNG MÂU THUẪN
Phát biểu: Hai phán đoán, nhận định mâu thuẫn nhau, trái ngược nhau không thể nào cùng đúng. Trong hai phán đoán, nhận định như vậy có ít nhất là một phán đoán, nhận định sai.

Quy luật này phản ánh tính chất không mâu thuẫn của quá trình tư duy. Mâu thuẫn phá vỡ quá trình tư duy nên trong tư duy nhất định phải tránh nó. Tư duy của chúng ta không được chứa mâu thuẫn vì tư duy phản ánh hiện thực khách quan, mà trong hiện thực khách quan thì ở mỗi thời điểm không thể có trường hợp một đối tượng vừa có, lại vừa không có một tính chất nhất định nào đó. Ví dụ, tại một thời điểm, một bông hồng cụ thể không thể nào vừa có màu đỏ, vừa không có màu đỏ. Cần lưu ý rằng, mâu thuẫn mà chúng ta nói đến ở đây là mâu thuẫn hình thức, chứ không phải là mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn hình thức không thể có được vì, như đã biết, logic hình thức nghiên cứu tư duy với tư cách là sự phản ánh các sự vật và hiện tượng của hiện thực khách quan trong sự đứng im của nó, nghĩa là phản ánh hiện thực khách quan theo kiểu lý tưởng hóa.

Nội dung của quy luật không mâu thuẫn được diễn giải cụ thể hơn qua các yêu cầu sau đây:

1. Quá trình tư duy không được chứa mâu thuẫn trực tiếp. Cụ thể là không được cùng một lúc vừa khẳng định vừa phủ định một điều gì đó. Ví dụ, không thể vừa khẳng định rằng Liên minh châu Âu sẽ có được bản hiến pháp của mình, lại vừa khẳng định rằng Liên minh châu Âu sẽ không thể thông qua được một bản hiến pháp như thế.

Trong thực tế đôi khi ta gặp những câu nói có vẻ như chứa mâu thuẫn trực tiếp nhưng vẫn thấy chấp nhận được. Ví dụ, câu “Giải vô địch bóng đá quốc gia V-leage vừa qua vừa đạt, vừa chưa đạt” nhìn bề ngoài như chứa mâu thuẫn trực tiếp, nhưng lại vẫn chấp nhận được. Vậy phải chăng ở đây ta đã bỏ qua yêu cầu của quy luật không mâu thuẫn? Thật ra thì trong trường hợp này yêu cầu của luật không mâu thuẫn vẫn được tôn trọng, vì từ “đạt” trong câu nói trên được hiểu theo nhiều cách khác nhau, và vì vậy ở đây không có mâu thuẫn. Nếu tiếp tục làm rõ ý kiến của mình thì người đưa ra câu nói đó sẽ giải thích đã đạt ở mặt nào và không đạt ở mặt nào (đó là các mặt khác nhau). Nghĩa là anh ta sẽ cho biết hiểu theo nghĩa nào thì chuyến tập huấn được coi là đạt và hiểu theo cách nào thì không đạt.

2. Quá trình tư duy không được chứa mâu thuẫn gián tiếp. Cụ thể là không được khẳng định (hay phủ định) một vấn đề nào đó rồi lại phủ định (hay khẳng định) các hệ quả của nó. Ví dụ, nếu khẳng định rằng lý thuyết tương đối hẹp của Einstein là đúng thì không thểphủnhận công thức E = mc2 thể hiện mối liên hệ giữa năng lượng và khối lượng của ông.

Nếu như mâu thuẫn trực tiếp dễ được nhận thấy, và vì vậy dễ tránh, thì mâu thuẫn gián tiếp khó nhận thấy hơn, và vì vậy khó tránh hơn nhiều.

Ví dụ 3. Lời nói của Đức Phật với quỷ Mala: “(…) Ta không cần danh vọng, Mala, mi hãy thuyết những điều đó với những kẻ hám danh vọng. (…) Thành đạt, danh tiếng, danh dựvà vinh quang chỉ là sự hư ảo, sự thắng lợi của kẻ này là thất bại của người kia. (…) Ta trải cơ mạn xa để chiến đấu với người đây. Ta thà chết vinh trong trận chiến, còn hơn sống nhục trong đầu hàng.”[3] Trong lời nói này ta thấy câu cuối cùng “ta thà chết vinh trong trận chiến, còn hơn sống nhục trong đầu hàng” mâu thuẫn với những câu ở phía trên.

Khi rèn luyện tư duy nhiều ta sẽ nâng cao được khả năng phát hiện mâu thuẫn trong các suy luận của chính mình và của người khác, phát hiện thấy những cái không ổn trong các suy luận đó. Khi phát hiện rằng suy luận “có điều gì đó không ổn”, nghĩa là phát hiện ra khả năng chứa mâu thuẫn gián tiếp của nó, ta có thể tiến hành đặt liên tiếp các câu hỏi để người đưa ra suy luận trả lời và bằng cách đó chỉ ra mâu thuẫn trực tiếp.

Ví dụ 4. Khi thấy lời khai của người bị tình nghi phạm tội có chứa điều gì đó không ổn, cán bộ điều tra sẽ đặt ra cho người đó hàng loạt câu hỏi cho đến khi người đó không trả lời được nữa, vì thấy mình đã gặp mâu thuẫn rõ ràng, trực tiếp.

Ví dụ 5. Trong câu chuyện tiếu lâm về con rắn vuông, khi nghe chồng kể về một con rắn khổng lồ, chị vợ đã liên tục tỏ ý nghi ngờ về chiều dài của nó. Điều này làm cho anh chồng liên tục rút ngắn chiều dài của con rắn, và cuối cùng là có được con rắn vuông. Như vậy, mâu thuẫn chưa lộ rõ hẳn giữa sự tồn tại của con rắn khổng lồ trong câu chuyện của người chồng với thực tế đến lúc này đã trở thành mâu thuẫn rõ ràng giữa sự tồn tại của con rắn vuông với thực tế.

Câu “nói dối hay cùng” chính là nói về những trường hợp như thế này.

Nắm vững nội dung và áp dụng thành thạo quy luật không mâu thuẫn giúp ta trình bày tư tưởng nhất quán và dễ dàng phát hiện các biểu hiện ngụy biện trong suy luận.

III. QUY LUẬT TRIỆT TAM

Phát biểu: Một phán đoán, nhận định hoặc đúng hoặc sai chứ không thể có một giá trị thứ ba nào khác.

Đây là quy luật đặc trưng của logic hai giá trị - logic thông thường mà ta vẫn sử dụng.

Với một phán đoán, nhận định nhất định, quy luật triệt tam không cho biết nó đúng hay sai, nhưng cho biết rằng nó chỉ có thể hoặc đúng, hoặc sai chứ không thể có giá trị nào khác. Ví dụ, ta chưa biết câu nói “Có người ngoài Trái đất đến thăm Trái đất” đúng hay sai, nhưng quy luật triệt tam khẳng định rằng hoặc nó đúng, hoặc nó sai!

Quy luật triệt tam không cho phép người ta tránh né vấn đề khi trả lời câu hỏi. Nó không cho phép trả lời lấp lửng, nước đôi, mà đòi hỏi câu trả lời dứt khoát.

Ví dụ, khi một thanh niên đi kiếm việc làm được hỏi có biết ngoại ngữ hay không thì anh ta chỉ có thể trả lời “có” hoặc “không”, tất cả các câu trả lời khác đều không có giá trị.

Trong thực tiễn, người ta ứng dụng quy luật triệt tam để chứng minh bằng phản chứng.

Đôi khi ta gặp những câu nói rất sâu sắc mà biểu hiện trực tiếp là quy luật triệt tam. Ví dụ, cuối bộ sách Tam quốc diễn nghĩa, sau khi kể chuyện nhà Tấn thống nhất Trung Quốc, tác giả La Quán Trung đã viết, đại ý: Lịch sử các nước cứ như vậy, hết hợp thì tan, hết tan rồi lại hợp. Hay, cuối bộ sách Hồng lâu mộng, sau khi kể vợ Bảo Ngọc sinh con trai và gia đình họ Giả bắt đầu hưng thịnh trở lại, tác giả Tào Tuyết Cần viết, đại ý: Ở đời cứ như vậy, hết thịnh rồi thì suy, hết suy rồi lại thịnh.

Một số tác giả cho rằng quy luật triệt tam là hệ quả của quy luật đồng nhất. Đây là một sự nhầm lẫn. Ta có thể bác bỏ điều đó hết sức dễ dàng. Thật vậy, nếu quy luật triệt tam là hệ quả của quy luật đồng nhất thì ở bất cứ chỗ nào mà quy luật đồng nhất đúng thì quy luật triệt tam cũng phải đúng. Nhưng rõ ràng là trong các hệ logic ba giá trị quy luật đồng nhất vẫn đúng, trong khi đó thì quy luật triệt tam không đúng. Trong những suy luận nhằm rút ra quy luật triệt tam từ quy luật đồng nhất mà thỉnh thoảng ta gặp trong các tài liệu logic đã chứa sẵn vòng tròn logic. Thật vậy, những suy luận kiểu này được thực hiện trong khuôn khổ của logic hai giá trị và sử dụng các tính chất của logic đó. Tuy nhiên sở dĩ logic hai giá trị là logic hai giá trị là vì nó tuân thủ quy luật triệt tam. Như vậy có nghĩa là những tính chất của logic hai giá trị được sử dụng để rút ra quy luật triệt tam từ quy luật đồng nhất phụ thuộc vào chính quy luật triệt tam!

IV. QUY LUẬT LÝ DO ĐẦY ĐỦ

Phát biểu: Một tư tưởng chỉ có giá trị khi nó có đầy đủ các cơ sở.
Khác với ba quy luật trên, - những quy luật được Aristote tìm ra từ thời cổ đại -, quy luật này được Leibnitz phát hiện ở thế kỷ thứ XVIII.

Quy luật lý do đầy đủ đòi hỏi các tư tưởng phải được đưa ra trên những cơ sở nhất định. Tư duy của chúng ta cấu thành từ một chuỗi các tư tưởng như vậy. Những tư tưởng đi trước làm cơ sở cho những tư tưởng đi sau. Chỉ trong trường hợp đó thì tư duy mới được coi là chặt chẽ, có logic. Ngược lại, tư tưởng sẽ lủng củng. Người nghe sẽ thấy người nói nhảy từ vấn đề này qua vấn đề khác một cách tùy tiện. Trong thực tế, đòi hỏi làm một việc gì đó hoặc trình bày một vấn đề nào đó theo một trình tự nhất định chính là đòi hỏi thỏa mãn quy luật này.

Quy luật lý do đầy đủ dựa trên một quy luật rất cơ bản của tự nhiên là quy luật nhân - quả: Mọi sự vật và hiện tượng đều có nguyên nhân của nó. Trong cùng một điều kiện, cùng một nguyên nhân sẽ đưa đến cùng một kết quả. Nếu như tư tưởng phản ánh hiện tượng thì cơ sở của nó là cái phản ánh nguyên nhân của hiện tượng đó. Trong tự nhiên, nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả. Nhưng trong tư duy ta lại có thể biết hiện tượng trước rồi mới đi tìm nguyên nhân sau, nên thứ tự ở đây không giống trong tự nhiên.

Nguyên nhân mà chúng ta nói đến ở đây là nguyên nhân hiện thực, chứ không phải là nguyên nhân siêu nhiên, thần thánh, ma quỷ.

Ví dụ 6. Một người lái taxi nào đó luôn có thu nhập cao hơn so với nhiều người khác, mặc dầu anh ta làm việc trong cùng một điều kiện như họ. Khi đó, người ta hay nói rằng số anh ta may mắn. Nhưng nếu quan niệm như vậy thì ta sẽ không cải thiện được tình hình của mình. Ngược lại, nếu hiểu rằng hiện tượng này cũng phải có nguyên nhân của nó, và nguyên nhân đó là nguyên nhân vật chất, nghĩa là nguyên nhân có thể hiểu và ứng dụng được, thì ta sẽ tìm hiểu, phân tích những yếu tố đưa lại thành công cho người kia, rồi tìm cách để áp dụng, và nhờ đó có thể nâng cao thu nhập của mình.

Tuân thủ nghiêm các quy luật cơ bản trình bày trên đây sẽ giúp chúng ta suy nghĩ và trình bày tư tưởng của mình một cách rõ ràng, chính xác, ngắn gọn, mạch lạc, dễ hiểu. Ứng dụng các quy luật này chúng ta cũng dễ dàng phát hiện các sai lầm trong suy luận của người khác và của chính mình để phản bác, để vạch trần sự ngụy biện, hoặc để tránh sai lầm.

- Phạm Đình Nghiệm-

Các kỹ năng phản biện cho học sinh lớp một



Đối với học sinh lớp Một, học đọc, học các kĩ năng cơ bản của toán, và học viết các con số là mối ưu tiên hàng đầu. Nhưng trong số các kĩ năng cơ bản mà học sinh phải học thì tư duy phản biện là kĩ năng quan trọng nhất. Áp dụng, phân tích và đánh giá thông tin là một trong những nền tảng của giáo dục và, nếu được dạy sớm, học sinh có thể thuần thục nghệ thuật tư duy phản biện.

Tư duy phản biện là gì?


Tổ chức giáo dục National Council for Excellence in Critical Thinking (NCECT) định nghĩa kĩ năng tư duy phản biện là “quá trình - được tiến hành có kỷ luật về mặt trí tuệ - khái niệm hóa, áp dụng, phân tích, tổng hợp, và/hoặc đánh giá thông tin thu thập từ, hay tạo ra bởi, sự quan sát, kinh nghiệm, suy ngẫm và lập luận, hay giao tiếp, như là một hướng dẫn cho lòng tin và hành động.” Trong thực tế, người có tư duy phản biện là người học tập tích cực. Họ là những người thường xuyên tra vấn về những gì họ thấy và nghe, và họ muốn biết những gì ở sau bề mặt.

Các chiến lược học tư duy phản biện


Có nhiều chiến lược giảng dạy các kĩ năng này trong lớp học. Chỉ có một vài chiến lược được khuyến nghị từ Viện Nghiên cứu của Hoa Kỳ gồm: học trong môi trường nhóm, các phương pháp đặt câu hỏi mở và áp dụng các bài học cho môi trường đời sống thật. Đặt câu hỏi mở từ phía giáo viên, chẳng hạn, cho phép học sinh tìm những câu trả lời chứ không phải nhai đi nhai lại cho nhớ câu trả lời “đúng”. Loại hình tư duy tìm tòi này giữ vai trò then chốt cho việc học tư duy phản biện. Chỉ ra cách đưa kĩ năng này vào các tình huống đời sống thực cũng là cách tăng cường năng lực tư duy phản biện cho học sinh. Học sinh có thể có động lực học tập hơn nếu bài học của em có gắn với những đồng xu con heo đất của em, chẳng hạn.

Phát triển các kĩ năng phản biện

Theo tổ chức Council for Exceptional Children, các giáo viên có thể phát triển các kĩ năng tư duy phản biện cơ bản của việc phân tích, tổng hợp và đánh giá ở học sinh của họ thông qua các hoạt động khác nhau trên lớp và các tuyến đặt câu hỏi (lines of questioning). Cách giáo viên xây dựng một câu hỏi đặt biệt quan trọng ở đây. Mô hình câu hỏi mở có thể được dùng để tạo thuận lợi cho hoạt động thảo luận và tư duy, nhưng về cơ bản, các loại câu hỏi sẽ hướng dẫn các hoạt động học tập.

Khi học sinh phân tích môt câu chuyện hay một vấn đề, giáo viên nên cố thuyết phục chúng xem xét những điểm khác nhau, giải thích điều mà chúng đang thấy và so sánh hai điều giống hay khác nhau.

Trong các hoạt động nào mà học sinh đang tổng hợp thông tin, như trong việc đọc sách hay hoạt động khoa học, giáo viên nên yêu cầu chúng tạo ra hay nghĩ ra những ý tưởng mới, hay so sánh và đối lập những gì chúng đang thấy. Các câu hỏi “Nếu thế thì sao”, như “Nếu em là nhân vật trong câu chuyện thì sẽ thế nào?”, giúp học sinh thực hiện việc tổng hợp các vấn đề.

Khi đánh giá, giáo viên nên xét đoán hay quyết định xem điều gì đó là phải hay trái, đúng hay không đúng. Ước lượng, chọn lọc và giải thích đều là những phương cách hay để giúp học sinh đưa ra các phán đoán dựa trên một tập hợp các tiêu chí được quy định trước nào đó.

Bất cứ hoạt động nào có liên quan đến các kĩ năng tư duy phản biện này nên dựa trên sự vui thích và bản tính tò mò tự nhiên của trẻ. Các trò chơi và các hoạt động viết liên quan tới việc đặt câu hỏi là những kĩ thuật giúp trẻ em trở nên chú tâm hơn.

Source: http://www.ehow.com/way_5827554_critical-thinking-skills-first-grade.html

Ngụy biện



NGỤY BIỆN

PHẠM ĐÌNH NGHIỆM




Trong thực tế cuộc sống thường ngày cũng như trong khoa học và kỹ thuật ta thường gặp những suy luận nhìn bề ngoài thì có vẻ đúng, có vẻ hợp lý, nhưng nếu xem xét kỹ thì thấy chúng vi phạm các quy tắc logic. Người ta gọi những sai lầm không cố ý trong suy luận là sự ngộ biện, còn những sai lầm cố ý thì được gọi là sự ngụy biện.

I. KHÁI NIỆM

Nếu chỉ xét về mặt logic thì ngụy biện cũng là sai lầm logic.

Ngụy biện là sự cố ý vi phạm các quy tắc logic trong suy luận nhằm mục đích đánh lạc hướng người nghe, người đọc, làm cho người khác nhầm tưởng cái sai là đúng và cái đúng là sai.

II. MỘT SỐ LOẠI NGỤY BIỆN THƯỜNG GẶP

Ngụy biện có rất nhiều kiểu khác nhau. Sự phân loại ngụy biện đầu tiên được Aristote tiến hành. Ông chỉ ra 13 loại ngụy biện, hay nói chung là sai lầm logic, khác nhau. Các nhà logic học về sau này xác định thêm hàng chục loại ngụy biện khác nữa. Nếu căn cứ vào cấu trúc của một phép chứng minh thì ta có thể chia ngụy biện ra thành ba loại: ngụy biện liên quan đến luận cứ, ngụy biện liên quan đến luận đề, và ngụy biện liên quan đến lập luận. Nhưng cụ thể hơn, người ta có thể phân chia ngụy biện thành các loại căn cứ vào các thủ pháp mà nhà ngụy biện sử dụng. Sau đây ta sẽ xét một số kiểu ngụy biện theo cách phân chia này.

1. Ngụy biện dựa vào uy tín cá nhân


Trong kiểu ngụy biện này, đáng lẽ phải đưa ra dẫn chứng, đưa ra chứng cứ cho lập luận của mình, thì nhà ngụy biện lại dựa vào uy tín của người khác để thay thế. Làm như vậy là ngụy biện, bởi vì uy tín của một người không đảm bảo chắc chắn rằng tất cả những điều mà người đó nói đều đúng. Không phải uy tín làm cho câu nói của người ta đúng, mà ngược lại, chính cái đúng của những câu nói của một người tạo nên uy tín cho người đó.

Ví dụ 1. Khi giáo viên nói rằng hai đường thẳng song song không bao giờ cắt nhau, có học sinh nghi ngờ điều đó và đòi hỏi phải được giải thích. Sau khi cố gắng giải thích mà không đạt và học sinh đó vẫn chưa chịu công nhận, giáo viên bèn nói: “Euclide đã khẳng định như vậy, em không tin Euclide hay sao?”

Ở đây giáo viên đã sử dụng uy tín của Euclide để thay thế cho chứng cứ.

Ví dụ 2. Giảng viên nói rằng, trong điều kiện chủ nghĩa tư bản độc quyền chủ nghĩa xã hội có thể thắng ở một nước, - là khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản -, chứ không đòi hỏi phải thắng ở một loạt các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất như trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh. Nghe vậy, một số thính giả đòi hỏi giải thích. Thay vì đưa ra các chứng cứ và lập luận chứng minh cho luận điểm mà mình đã nêu, giảng viên nói rằng luận điểm đó chắc chắn đúng, vì Lênin đã nói như vậy.

Ở đây, giảng viên trên đã dựa vào uy tín của Lênin thay thế cho việc chứng minh. Lẽ ra ông ta phải chứng minh luận điểm đó như Lênin đã làm.

2. Ngụy biện dựa vào đám đông, dựa vào dư luận


Ngụy biện dựa vào đám đông thường xảy ra ở những cuộc tranh luận trước một đám đông người. Nhà ngụy biện sử dụng khả năng hùng biện của mình, lợi dụng truyền thống, tình cảm, quyền lợi, thói quen, … của đám đông để tranh thủ cảm tình và sự ủng hộ của đám đông đó, tạo áp lực buộc những người tranh luận với ông ta phải chấp nhận quan điểm của ông ta. Trong kiểu ngụy biện dựa vào dư luận, thay cho việc đưa ra luận cứ và chứng minh luận điểm, người nói lại cho rằng luận điểm là đúng vì có nhiều người công nhận như vậy. Đây là lập luận ngụy biện, vì nhiều người cho là đúng chưa đảm bảo tính đúng đắn của luận điểm; ngược lại, nhiều người cho là sai cũng không có nghĩa là luận điểm chắc chắn sai.

Ví dụ 3. Không phải vì rất nhiều người coi rằng ông X phạm tội giết người nên đúng là ông ta giết người.

Ví dụ 4. Hồi đầu thế kỷ XX, khi nhà bác học Einstein đưa ra thuyết tương đối, nhiều nhà vật lý học cho rằng nó sai. Và ta đã thấy rằng không phải vì vậy mà thuyết tương đối sai, ngược lại, tính đúng đắn của nó đã được lịch sử vật lý học kiểm chứng.

3. Ngụy biện dựa vào sức mạnh
Trong kiểu ngụy biện này, nhà ngụy biện sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để ép người khác tin vào và chấp nhận luận điểm của mình. Ở đây, sức mạnh chứ không phải là tính chân lý của luận điểm bắt người nghe phải tin theo.

Ví dụ 5. Một giám đốc ra lệnh cho kế toán phải chi một khoản tiền sai nguyên tắc. Người kế toán phản đối, nói rằng làm như vậy là trái nguyên tắc tài chính. Khi đó, vị giám đốc nói:“Cứ làm như tôi nói, chắc chắn sẽ đúng. Nếu anh không làm, tôi sẽ cho anh biết…”.

Ở đây, cụm từ “tôi sẽ cho anh biết…” hàm ý đe dọa.

4. Ngụy biện bằng cách đánh vào tình cảm

Trong kiểu ngụy biện này, thay vì đưa ra các luận cứ và lập luận để chứng tỏ luận điểm của mình đúng, nhà ngụy biện tìm cách tác động vào tâm lý, tình cảm của người nghe để gợi lên lòng thông cảm hoặc thương hại để được thừa nhận là đúng.

Ví dụ 6. Một người bị cáo buộc phạm tội ăn cắp. Ra trước tòa, anh ta kêu oan. Thay vì đưa ra các chứng cứ để chứng minh rằng mình vô tội, anh ta lại đi kể lể về tình cảnh gia đình khó khăn, nghèo đói, nhân thân tốt,… để hy vọng hội đồng xét xử thông cảm mà kết luận anh ta vô tội.

5. Ngụy biện đánh tráo luận đề

Đây là kiểu ngụy biện rất phổ biến. Trong kiểu ngụy biện này, trước hết nhà ngụy biện thay thế luận đề ban đầu bằng một luận đề mới trong quá trình tranh luận. Luận đề mới này không tương đương với luận đề ban đầu. Sau đó ông ta chứng minh luận đề mới một cách rất chặt chẽ và cuối cùng tuyên bố là mình đã chứng minh được luận đề ban đầu. Vì hai luận đề là không tương đương với nhau nên tính chất ngụy biện lộ rõ. Để thực hiện kiểu ngụy biện này, nhà ngụy biện hay sử dụng những hiện tượng ngôn ngữ đồng âm khác nghĩa, một từ có nhiều nghĩa, …; hoặc đem đồng nhất cái bộ phận với cái toàn thể, đồng nhất cái toàn thể với cái bộ phận; hoặc diễn tả mơ hồ để muốn hiểu theo cách nào cũng được,…

Ví dụ 7: Người ta đi chứng minh rằng cái bánh không thể biến mất được như sau: Cái bánh là vật chất, mà vật chất thì không biến mất, vậy cái bánh không biến mất.

Trong suy luận này người ta thay luận đề ban đầu bằng luận đề “vật chất không biến mất”, rồi dựa vào triết học để chứng minh luận đề thứ hai này. Tuy nhiên đây là suy luận ngụy biện, vì hai luận đề này không tương đương với nhau, bởi lẽ từ “vật chất” được hiểu với hai nghĩa khác nhau.

6. Ngụy biện ngẫu nhiên
Trong loại ngụy biện này một sự kiện ngẫu nhiên xảy ra được nhà ngụy biện coi là có tính chất quy luật.

Ví dụ 8. Một người lập luận rằng khi làm những việc quan trọng trong đời như cưới xin, làm nhà, lập công ty kinh doanh, v.v. ta phải chọn ngày lành, nếu không thì sẽ không thành công, hoặc không hạnh phúc. Cặp chàng trai và cô gái nọ - anh ta nêu ví dụ - yêu nhau thắm thiết, được gia đình và bạn bè ủng hộ. Họ tổ chức cưới vào một ngày lẻ theo âm lịch, một ngày không tốt. Và chỉ một năm sau họ đã chia tay nhau.

Sự trùng lặp giữa việc cưới vào ngày lẻ và sự tan vỡ hạnh phúc của gia đình trẻ nói đến trong ví dụ này chỉ là một điều ngẫu nhiên, nhưng lại được nhà ngụy biện coi là có tính phổ biến, tất yếu, có tính quy luật.

7. Ngụy biện đen - trắng


Ngụy biện đen - trắng xảy ra khi trong lập luận chỉ nhìn thấy và nêu lên các khả năng đối lập nhau, các thái cực, từ đây cho rằng không phải là cực này thì là cực kia, loại bỏ tất cả các khả năng khác.

Ví dụ 9. Có người khẳng định rằng khi răng nanh của trẻ em mọc chênh ra bên ngoài (răng khểnh) thì nên nhổ bỏ, vì nếu để nguyên như vậy thì “cái duyên” do nó mang lại không bù được sự khó khăn khi làm vệ sinh răng miệng, và vì thế mà dễ bị sâu răng.

Trong lập luận này người nói chỉ nêu lên hai thái cực: hoặc để nguyên răng mọc lệch như vậy, hoặc nhổ bỏ răng đó. Trong khi đó thì trên thực tế còn có khả năng thứ ba, đó là tiến hành chỉnh nha cho trẻ nhỏ, để răng mọc đúng.

8. Ngụy biện bằng cách dựa vào nhân quả sai

Ngụy biện bằng cách sử dụng lập luận trong đó quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng được hiểu sai có nhiều phân loại.

(a) Đánh đồng nguyên nhân với nguyên cớ

Trong loại ngụy biện này nhà ngụy biện cố tình lấy nguyên cớ thay cho nguyên nhân để biện minh cho hành động của mình, hay để thuyết phục người khác. Nguyên nhân thật sự của việc các chính quyền Mỹ và Anh tiến hành chiến tranh với Iraq là các nguồn lợi dầu mỏ to lớn ở quốc gia này, nhưng họ lại nói rằng nguyên nhân là chính quyền Saddam Husein phát triển và cất giữ nhiều lọai vũ khí hủy diệt hàng loạt. Thật ra đó chỉ là cái cớ mà thôi.

(b) Sau cái đó vậy là do cái đó

Trong mối liên hệ nhân quả thì nguyên nhân bao giờ cũng xảy ra trước kết quả, tuy nhiên như vậy không có nghĩa là một hiện tượng, sự kiện xảy ra trước bao giờ cũng là nguyên nhân của một hiện tượng, sự kiện xảy ra sau. Ngụy biện sau cái đó vậy là do cái đó là kiểu ngụy biện trong đó khi thấy hai sự kiện, hiện tượng A và B xảy ra lần lượt theo thời gian cho rằng A là nguyên nhân của B.

Ví dụ 10. Một người hy vọng làm giàu bằng cách mua vé xổ số. Anh ta đã mua khá nhiều vé xổ số, nhưng chưa trúng giải nào cả. Anh ta bèn lên chùa cúng vái, cầu xin Đức Phật cho anh ta trúng xổ số. Vài ngày sau anh ta trúng giải đặc biệt nhờ mua vé xổ số. Anh ta kết luận rằng nhờ cầu xin Đức Phật nên trúng giải đó.

Ở đây việc lên chùa cầu xin là sự kiện xảy ra trước, nó không phải là nguyên nhân của sự kiện trúng xổ số xảy ra sau đó.

9. Dựa vào sự kém cỏi
Đây là kiểu ngụy biện trong đó người ngụy biện căn cứ vào việc ai đó không chứng minh được một mệnh đề (hoặc lý thuyết, giả thuyết,…), hoặc không tìm thấy được một đối tượng nào đó để khẳng định rằng mệnh đề trên sai, hoặc đối tượng đó không tồn tại.

Ví dụ 11. Có thể khẳng định rằng không thể có sinh vật có trí tuệ nào khác trong vũ trụ ngoài con người, vì nếu có thì khoa học đã phát hiện ra các sinh vật đó rồi.

Đây là khẳng định sai lầm, vì ngay cả khoa học ở thời đại chúng ta cũng còn có rất nhiều hạn chế, nên có thể các sinh vật có trí tuệ khác tồn tại trong vũ trụ, nhưng vì sự hạn chế, sự kém cỏi của mình mà khoa học hiện nay không phát hiện được.

10. Lập luận vòng quanh


Loại ngụy biện này xảy ra khi người ta vi phạm quy tắc đối với luận cứ trong chứng minh. Cụ thể là ở đây các luận cứ không được chứng minh độc lập với luận đề.

11. Khái quát hóa vội vã

Đây là kiểu ngụy biện xảy ra khi người ta sử dụng suy luận quy nạp trong lập luận, trong đó người ta đi đến kết luận tổng quát sau khi khảo sát rất ít trường hợp riêng.

Ví dụ 12. Sau bảy phiên giao dịch đầu tiên của Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, thấy rằng giá cổ phiếu của các công ty đã niêm yết liên tục tăng tới mức trần, người ta đi đến khẳng định rằng giá cổ phiếu của tất cả các công ty có niêm yết ở Trung tâm này sẽ luôn luôn tăng đến mức trần.

Suy luận này đưa ra kết luận không đáng tin cậy, vì, như đã biết, kết luận trong suy luận quy nạp chỉ đúng với một xác suất nào đó mà thôi, không đảm bảo chắc chắn đúng ngay cả khi các tiền đề đều đúng; và xác suất đúng của kết luận trong loại suy luận này rất thấp nếu số lượng các trường hợp riêng được khảo sát nhỏ. Trong ví dụ của chúng ta số lượng các trường hợp riêng được khảo sát là bảy, quá nhỏ.

12. Câu hỏi phức hợp
Loại ngụy biện này xảy ra khi người ta đưa ra một câu hỏi bên trong đó chứa hai câu hỏi, và một câu trả lời duy nhất được coi là câu trả lời cho cả hai câu hỏi.

Ví dụ 13. Hỏi : “Anh có hay chơi thể thao và đọc tiểu thuyết kiếm hiệp không ?”. Câu trả lời “có” được coi là câu trả lời cho cả hai câu hỏi “Anh có hay chơi thể thao không ?” và “Anh có hay đọc tiểu thuyết kiếm hiệp không ?”. Câu trả lời “không” cũng được diễn giải tương tự.

Ví dụ 14. Hỏi :“Có phải anh không thích anh ta và hay nói xấu anh ta không?”

Nhà ngụy biện có thể kết hợp các câu hỏi vào trong một câu hỏi một cách rất tinh vi, và nhiều khi người trả lời không biết là mình đã trả lời cho nhiều câu hỏi cùng một lúc. Điều này sẽ bị nhà ngụy biện lợi dụng vào mục đích của mình.

13. Ngụy biện bằng cách sử dụng những phương pháp suy luận có tính xác suất

Trong những suy luận kiểu này nhà ngụy biện sử dụng các phương pháp suy luận cho kết quả đúng với một xác suất nhất định (ví dụ như suy luận tương tự, suy luận quy nạp), nhưng lại coi các kết luận đó như là những điều khẳng định chắc chắn.

Ví dụ 15. Người ta chứng minh rằng mọi số tự nhiên đều nhỏ hơn một trăm như sau:

1 nhỏ hơn 100;

2 nhỏ hơn 100;

3 nhỏ hơn 100;

. . . . . . . . . . . . . .

98 nhỏ hơn 100;

99 nhỏ hơn 100;

1, 2, 3, … , 98, 99 đều là các số tự nhiên;

Vậy mọi số tự nhiên đều nhỏ hơn 100.

14. Ngụy biện bằng cách diễn đạt mập mờ

Trong trường hợp này nhà ngụy biện cố tình hành văn một cách mập mờ để sau đó giải thích theo ý mình.

Ví dụ 16. Gánh xiếc Bacnum đề nghị Xamlôi - chuyên gia về toán đố vui của Mỹ ở cuối thế kỷ XIX đưa ra cho một bài toán đố. Ai giải được sẽ được thưởng. Bài toán như sau:

“Một con chó và một con mèo chạy thi 100 fút lượt đi và lượt về. Con chó chạy mỗi bước 3 fút, con mèo chạy mỗi bước 2 fút, nhưng nó nhảy được 3 bước thì đối thủ của nó mới nhảy được 2 bước. Con nào về trước?”

Vì quãng đường cả đi lẫn về là 200 fút, nên mèo phải nhảy đúng 100 bước. Chó nhảy mỗi bước 3 fút, vậy nó phải nhảy 34 bước ở lượt đi (nếu nhảy 33 bước thì mới được 33 * 3 = 99 fút) và 34 bước ở lượt về. Như vậy, chó phải nhảy tổng cộng 68 bước. Mèo nhảy 3 bước thì chó mới nhảy được 2 bước, vậy mèo nhảy được 100 bước thì chó mới nhảy được

100 * (2/3) = 66,667 (bước) < 68 (bước)

Như vậy mèo về đích trước.

Nhưng Bacnum lại trả lời rằng chó thắng cuộc, vì, ông ta giải thích rằng câu “nó nhảy được 3 bước thì đối thủ của nó mới nhảy được 2 bước” có nghĩa là chó nhảy được 3 bước thì mèo mới nhảy được hai bước, từ “nó” ở đây hiểu là chó!

(Theo Phan Thanh Quang “Giai thoại toán học”, tập một, NXB Giáo dục, 1995, tr. 7)

III. PHƯƠNG PHÁP BÁC BỎ NGỤY BIỆN


Phương pháp chung bác bỏ ngụy biện là làm ngược lại những thủ pháp mà nhà ngụy biện đã sử dụng. Ví dụ, nhà ngụy biện hành văn mập mờ thì ta đòi hỏi phải hành văn rõ ràng; nhà ngụy biện đánh tráo luận đề, đánh tráo khái niệm thì ta đòi hỏi xác định lại, định nghĩa lại khái niệm khi tranh luận; nhà ngụy biện dùng luận cứ không chân thực thì ta chỉ rõ ra điều đó,…

Một phương pháp là nghiên cứu thật nhiều các dạng ngụy biện và các ví dụ ngụy biện, để khi gặp ngụy biện có thể nhận ra chúng và bác bỏ.

Nói chung, nắm được các quy tắc logic thì ta dễ dàng vạch ra được sự ngụy biện trong suy luận.

Nguồn: Phạm Đình Nghiệm. Nhập môn Logic học. Nxb. Đại học quốc gia, Tp. Hồ Chí Minh, 2008, tr. 86-91. Bản đăng trên triethoc.edu.vn đã được tác giả cho phép.

Trí tuệ làm nên tính thượng lưu



Con người thuộc tầng lớp thượng lưu là con người trí tuệ, con người sống, học tập, hành động với hệ giá trị gốc.

Đấu tranh giai cấp đã từng là vấn đề căn bản trong một thời kỳ lịch sử dài của đất nước. Xóa bỏ giai cấp từng là mục tiêu tối quan trọng nhất. Thế nhưng, thời gian qua đi, thực tế đã chứng minh rằng, dù muốn hay không, sự tái phân chia tự nhiên các tầng lớp xã hội vẫn cứ hình thành.

Điều gì tạo ra sự khác biệt giữa các tầng lớp xã hội?

Đó chính là hệ giá trị mà họ theo đuổi.

Nhìn lại những thập kỷ qua, sự biến mất khoảng cách, hay đúng hơn là “cào bằng” đẳng cấp của các tầng lớp xã hội đã tạo ra một sự xáo trộn giá trị khủng khiếp. Ta hãy nhớ lại câu chuyện về Xuân “tóc đỏ”, từ một kẻ du thủ du thực, trở thành “thần tượng”. Đó là câu chuyện bi hài về một đám trọc phú xúm vào tôn vinh tầng lớp “bình dân”, đã gây ra một cuộc đảo lộn giá trị. Tất nhiên, điều chính yếu ở đây là lưu manh gặp trọc phú, sự kết hợp “đôi lứa xứng đôi” đó đã tạo nên một tấn kịch lố lăng thảm hại.

Nhưng nhìn vào xã hội hiện nay, ta có thấy lại hình ảnh của tấn kịch thời Số đỏ?. Đọc báo, thấy cụm từ “tha hóa”, “xuống cấp đạo đức” nhan nhản. Tha hóa, xuống cấp – cùng nghĩa với mất gốc. Vậy gốc của đạo đức là gì? Tại sao nó mất? Cái gì đã và đang thay thế nó?

Một thời gian dài sau khi san bằng các tầng lớp xã hội, chúng ta đã sống trong nghèo đói, kiệt quệ về cơ sở vật chất. Sau đó, chính sách mở cửa đã làm bùng lên giai đoạn giàu xổi nhanh chóng. Rất đông “nhà giàu mới” đã kiếm lợi từ những khoản tiền bất chính và tạo ra một tầng lớp trọc phú. Không ít người trong số này xuất phát từ một tầng lớp thấp hơn (được đo đếm bằng một hệ giá trị thấp hơn, đó là miếng ăn). Nhưng khi trở nên giàu có, họ đột nhiên “có uy”. “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền” – họ tìm cách áp đặt hệ giá trị của tầng lớp mình cho xã hội và tạo ra một cuộc “cách mạng tầng lớp”.

Hệ giá trị thấp kém của tầng lớp “nhà giàu mới” này dần trở thành “chuẩn mực mới” của xã hội. Chuẩn mực thấp kém ấy khiến cho đạo đức suy đồi, trắng đen lẫn lộn, văn hóa thì ở trong tình trạng “hoa sen xuống dưới, bèo treo lên trên”. Cảnh tượng này nhan nhản từ trong nhà ra ngoài ngõ, từ những khu ổ chuột cho đến những tòa nhà hạng sang.

Bạn cần một ví dụ ư?

Hãy nhớ tới những cuộc chè chén nhậu nhẹt đã trở thành chuẩn mực của các cuộc giao đãi. Những cuộc chè chén ăn nhậu, ban đầu chỉ là phục vụ làm ăn cho giới nhà giàu mới, vốn là cách họ xây dựng quan hệ, kiếm chác, đi đêm với nhau. Người ta nhìn vào, liền nghĩ “đi ăn nhậu là việc của người đẳng cấp, là công to việc lớn”, thế là Ăn nhậu đã lan nhanh như dịch bệnh và trở thành một hoạt động “mặc định”: không nhậu không phải dân chơi.

Hãy nhớ tới mốt “chạy trường chạy điểm”. “Chạy trường chạy điểm” ban đầu là giải pháp cho những đứa trẻ “con ông cháu cha”, nhà có của, nhưng học dốt, bố mẹ không muốn xấu mặt, mới bỏ tiền ra chạy chọt cho con. Ấy vậy mà giờ đây nó đã trở thành trào lưu cuốn cả xã hội vào với niềm tin phải có tiền mới có giáo dục tốt.

Hãy nhớ tới những cuộc chạy đua theo hàng hiệu để chứng minh ta đây là người sành điệu. Bao nhiêu tiền bạc đã tiêu tốn một cách lãng phí để tạo ra vỏ bọc hào nhoáng vô ý nghĩa.

***********

Vậy, tầng lớp thượng lưu thực sự trong xã hội là ai? Thang giá trị gốc của họ là gì? Tại sao hàng ngàn năm trôi qua, vô vàn những ông vua, những ông chủ giàu có … đều đã bị quên lãng, nhưng những tên tuổi trí thức thượng tầng thì vẫn sống mãi và vẫn được học hỏi lại mỗi ngày?

Thượng lưu, nghĩa gốc là đầu nguồn. Đầu nguồn là tư tưởng gốc, giá trị gốc, cốt lõi. Đó là những giá trị bất biến theo thời gian, đi qua bão tố thời cuộc, đi qua mọi thử thách. Bất kỳ xã hội nào ta cũng thấy có một tầng lớp nắm giữ tinh thần cốt lõi của nó. Trong Star Wars, khi hành tinh Vulcan với gần 6 tỉ dân bị hủy diệt, thuyền trưởng tàu American Capital đã cố hết sức cứu nhóm trưởng lão, những người lưu giữ gốc văn hóa của hành tinh. Ông nói: họ còn, hành tinh sẽ còn.

Hàng ngàn năm lịch sử Việt Nam đã trôi qua. Hàng ngàn năm lịch sử thế giới đã trôi qua. Giá trị gốc của con người, dù ở đất nước nào vẫn không thay đổi. Nhân nghĩa lễ trí tín, văn hóa, trí tuệ, tinh thần tự do, ý chí sáng tạo … vẫn là gốc. Trí tuệ, sự hiểu biết, học hỏi, sự kiên định bảo vệ những giá trị gốc – chính là điều tạo nên tầng lớp trí thức tinh hoa.

Con người thuộc tầng lớp thượng lưu là con người trí tuệ, con người sống, học tập, hành động với hệ giá trị gốc. Ở họ, những buồn vui, mong ước, yêu thương, chiến đấu, sáng tạo, mất mát … đều mang một ý nghĩa sâu sắc và vì người khác. Họ là người nâng đỡ tinh thần của những người xung quanh, như một tấm gương khi soi vào người khác thấy mình còn cần nỗ lực hơn nữa để hoàn thiện mình.

Họ tỏa ra ánh sáng trí tuệ, độc lập, không hòa lẫn vào đám đông, không bị tạp nhiễm dễ dàng bởi những hệ tiêu chuẩn thấp kém. Họ dù giàu hay nghèo, làm việc hay sống ở đâu, cũng thể hiện cốt cách của mình. Những người trí thức tinh hoa có sức ảnh hưởng tốt đẹp, tạo sự thay đổi cho xã hội thông qua lối sống/ tư tưởng/ công việc … của mình. Họ là những người bảo vệ sự trong sạch của dòng chảy từ thượng nguồn, họ là những cánh chim đại bàng luôn trải rộng, không bao giờ chùn bước, và hướng tới những hệ giá trị cao hơn, cao mãi.

Đó là điều tâm niệm với chúng tôi, những người chủ trương trang “Phụ nữ thượng lưu”. Chính trí tuệ là điều kiện tiên quyết làm nên tính thượng lưu trong con người.

Đó sự hiểu biết, kiến thức. Hiểu biết những giá trị gốc, cốt lõi, những giá trị cao quý mang lại sự tự do cho tư tưởng, cho con người. Là sự thực hành không ngừng nghỉ những giá trị đó trong đời sống thực và giúp đời sống của những người quanh mình trở nên tốt đẹp hơn.
Với Phụ nữ thượng lưu, chúng tôi mong muốn tạo không gian kết nối với những người bạn muốn cùng nhau tái xây dựng một xã hội mà trong đó những con chim đại bàng được tung cánh và dòng nước thượng nguồn giữ được sự trong sạch, ngọt lành để nuôi dưỡng vạn vật, cũng như con người. Nói một cách khác, chúng tôi mong muốn xây dựng tầng lớp tinh hoa và khuếch trương các giá trị tinh hoa, tái định hình một lối sống cao đẹp mà chúng ta đã lãng quên để chạy theo đủ điều vô nghĩa.

Ban biên tập Phụ nữ thượng lưu

Thứ Hai, 15 tháng 8, 2016

Cảm Nữ Nhi Tình - Đồng Lệ



http://mp3.zing.vn/bai-hat/Nu-Nhi-Tinh-Dong-Le/ZWZAB8IA.html


鸳鸯双栖蝶双飞
满园春色惹人
Những giai điệu đầu tiên của bài hát, kèm theo tiếng đàn như dẫn ta vào một vườn tình ái, nơi mà chỉ có ta và người tri kỉ của mình. Cảnh tượng thiên nhiên như trong những bức tranh về cõi thần tiên, một đôi cánh bướm chập chờn và quấn quýt bên nhau hạnh phúc… Vườn hoa mờ mờ ảo ảo trong khói sương, có sắc tím và vàng cam của nền trời và đôi uyên ương đang hạnh phúc mê đắm. Tiếng cười hòa lẫn với tiếng nhạc, đôi bướm rập rờn bay và nàng nữ nhi đắm chìm trong hạnh phúc với người tri kỉ. Còn gì trọn vẹn và viên mãn hơn giây phút này? Với nàng, chỉ cần mãi mãi được bên nhau như thế, ở bên người mình thương như vậy, cuộc đời này đã chẳng còn gì phải hối tiếc…
Đoạn B vang lên như có một báo hiệu gì đó. Khung cảnh hạnh phúc ấy chẳng tồn tại được bao lâu, hạnh phúc dần tan biến trong khói mây… Giờ đây nàng nhìn lại, cảnh còn đây mà người nỡ ở đâu mất? Phải chăng nàng vừa mơ một giấc mơ ngọt ngào, mọi hạnh phúc ấy chỉ là trong tâm tưởng của một người con gái mong muốn được hạnh phúc với người mình yêu? Đó là giấc mơ chưa từng tồn tại, hay đó đã từng là một quá khứ hạnh phúc mà giờ 2 người đành phải chia xa?

Những đoạn lên cao tưởng chừng như những lời oán hận ông trời của một nữ nhi yếu đuối. Mộng tình tan mất và người tình giờ ở nơi đâu? Tại sao người ra đi, để lại mình ta bơ vơ trong cõi trần tục lạnh lẽo này? Những áng mây kia nếu có tan đi, hãy cuốn ta đi cùng người đi, đừng để ta lại đây một mình!
Nỗi lòng này ai hiểu thấu, con tim này ai làm ấm lại? Có lẽ là chả còn ai, và có lẽ là cũng chẳng bao giờ tim ta có thể ấm lại một lần nữa… Trái tim này đã theo chàng đi về một nơi nào đó xa lắm rồi, cuộc sống ở đây chỉ còn lại đau khổ, chỉ còn lại sự cô đơn!
Nàng vùng vẫy trong sự cô đơn, nàng bơ vơ không còn gì bấu víu… Lời hát như một lời than khóc dài đầy đau khổ của một nữ nhi yếu đuối bất lực trước mọi sự việc. Nàng chỉ còn biết khóc cho thân phận mình, khóc cho mối tình đã tan trôi…
Đoạn A được lặp lại sau một đoạn nhạc nghỉ dài. Nàng đã mệt rồi, và nàng ngủ thiếp đi. Trong mơ, những khung cảnh ấy lại hiện về, nhưng không còn hạnh phúc như trước kia nữa. Có lẽ trong vô thức, con tim nàng thấy nó có màu hạnh phúc nhưng cũng có cả tiếng đau thương… Giấc ngủ cũng không thể mang nàng rời hoàn toàn khỏi thực tại đau khổ. Mộng mị đã trở thành một liều thuốc tê, khiến nàng bớt đau, bớt nhớ, nhưng nó khiến nàng cứ quẩn quanh thức, tỉnh…
Nàng tỉnh dậy, nhận ra mình vừa chìm trong giấc mơ hạnh phúc tự tạo. Tim nàng nhói đau, nàng lại nhớ người thương da diết. Chàng ở nơi nào? Nàng mong cùng chàng được sống cuộc sống hạnh phúc như ngày xưa! Tiếng khóc ấy lại nấc lên khi nhớ lại nỗi đau khổ mất đi hạnh phúc. Nàng khóc một mình, theo những giai điệu nhạc nguôi ngoai, nàng đã không còn khóc thành tiếng nữa… Trong dòng nước mắt, vô thức nàng lại nhớ lại những ngày tháng hạnh phúc, nhớ lại khung cảnh thần tiên mê đắm! Nàng như đang tự ru lòng mình, làm mình mê muội trong hạnh phúc không có thật, để rồi lại thấy mình được yêu thương, được hạnh phúc.
Những dòng nước mắt rơi xuống tay, nàng lại nhận ra đấy chỉ là mộng tưởng. Hiện thực này nàng vẫn cô đơn, vẫn chỉ có mình nàng, đơn độc trong cuộc đời này tìm kiếm những phút giây hạnh phúc trong hoài niệm quá khứ. Liệu bao giờ những suy nghĩ quẩn quanh của nàng mới dừng lại và ngừng làm nàng đau?
Đoạn B’ lặp lại, dường như nàng đã kiệt sức để chống trọi với cô đơn, hay đó là nàng đã tìm ra một giải thoát? Có lẽ là cả 2! Nàng buông tay, mỉm cười và hi vọng vào một tia sáng mong manh nhưng dịu nhẹ. Nàng tin, nàng sẽ ko còn đau khổ như bây giờ nữa!
Tôi như nghe thấy những câu nói cuối cùng của nàng thiếu nữ: “Chàng ơi, cuộc sống của em giờ chỉ còn lại những ngày tháng xưa của hoài niệm. Người yêu ơi, ở nơi nào đấy em vẫn mãi yêu chàng, chàng hãy đợi em! Hẹn gặp lại người trong kiếp sau…”

*Bài viết là cảm nhận riêng của người viết trên nền âm nhạc
Người viết không biết tiếng Trung nên khó thể trích dẫn* 

Jane Eyre - Sự vùng vẫy của những người phụ nữ

Ấy là vào một buổi chiều mùa thu, ngồi rảnh rang trên thư viện, tôi lấy đại một cuốn sách để đọc. Lật giở trang truyện Jane Eyre của Challote Bronte, ngay lập tức, tôi bị cuốn theo cuốn truyện từ trang này đến trang khác. Có lẽ bởi sự hấp dẫn trong cách kể chuyện, cách xây dựng nhân vật hay có thể là có một sợi dây nào đó kết nối giữa bản thân tôi và nhân vật trong truyện.
Jane Eyre bắt đầu bằng hình ảnh một cô bé có nội tâm đẹp, nhanh nhẹn, thông minh nhưng lại cô đơn giữa một thế giới rộng lớn. Jane là một cô bé có cá tính, mồ côi cha mẹ và phải sống ở nhà dì dượng Reed. Kể từ khi phải sống ở đó, Jane luôn bị đối xử như một đứa trẻ osin, thậm chí đôi lúc, họ còn coi cô như một trò tiêu khiển. Cuộc sống của Jane dường như gắn liền với những góc nhà, tấm rèm che cửa sổ quen thuộc. Trong gia đình ấy, cô sống cô độc, không sách, không được chơi đùa, lúc nào cũng có thể bị đánh đập, chửi rủa. Sống với tư cách là đứa trẻ ở nhờ, Jane đã từng cam chịu những sự hành hạ ấy. Nhưng buổi chiều hôm đó, trong lúc đang say sưa đắm mình trong thế giới của cuốn sách của Bewich thì đó cũng là lúc mọi thứ trong Jane thay đổi. hình ảnh cô bé thu mình lại một góc trốn dưới rèm cửa, ngấu nghiến đọc những trang sách mà đối với cô nó thật kì diệu dễ khiến cho người ta nhớ lại một thời con nít, hứng thú với một thế giới rộng lơn đầy màu sắc. Đối với một đứa trẻ ít được tiếp xúc với thế giới bên ngoài, những trang sách như mở cho cô một thế giới mới, ở đó, cô được tự do tưởng tượng những hình ảnh đẹp mê hồn. Cuốn sách đó như một nguồn sống, một nguồn khích lệ lớn để Jane dũng cảm đưa ra những “tuyên ngôn độc lập” cho bản thân. Khi bị giật mất cuốn sách và bị những đứa trẻ tự xưng là chủ nhà hành hạ, cô không hề e sợ mà thốt lên rằng chúng là đồ độc ác, giống tên cai nô, giống một tên La Mã hung bạo. Sau đó, đến chính cô cũng không hiểu nổi tại sao lúc đó cô lại có thể đáp lại bằng những lời như vậy, rồi sợ sệt khi phải nhận lại những hình phạt từ phía dì Reed.
Gia đình nhà Reed luôn bắt Jane sống tách biệt, không cho Jane chơi với những đứa con của mình. Tôi bị ấn tượng với câu hỏi ngây thơ của Jane và lời đáp lại chua chát của Bessie. Họ cho rằng những đứa trẻ thì không được phép cãi lại, không được đặt câu hỏi tại sao, nếu không đều sẽ là những đứa trẻ hư. Những suy nghĩ định kiến ấy cũng khiến tôi nhớ về những định kiến của xã hội Việt Nam chục năm về trước, và có thể bây giờ vẫn đang tồn tại nơi làng quê. Quan điểm “ngoan” là bảo gì nghe nấy, không hỏi lại tại sao, không được phép cãi lại, và dù không thích thì cũng phải nín nhịn làm theo. Tuổi thơ của tôi cũng đã phải chịu đựng những lễ giáo, những khuôn phép không hiểu từ đâu áp đặt lên mình. Có lẽ đó là sự kết nối đặc biệt đầu tiên của tôi khi đọc về tuổi thơ của Jane. Tôi cảm nhận được sự bí bách muốn vẫy vùng, muốn đập phá, muốn phủ nhận và xóa bỏ hết mọi sự vô lí đó! Tôi cảm nhận được một tâm hồn mạnh mẽ bị trói buộc và đè nặng bởi những áp đặt vô hình! Đó là sự bức bối, khó chịu, muốn đập tan, vùng vẫy và bỏ chạy… nhưng trong tay lại không hề có gì! Và kết quả là lại phải chịu những hình phạt, những trận đòn roi … Những hình phạt, một cách nào đó đã làm những đứa trẻ con sợ sệt và có thể sẽ ko dám làm như vậy một lần nữa. Nhưng với cô bé Jane Eyre, tôi vẫn nhìn ra ngọn lửa trong cô vẫn chưa tàn, chỉ là tạm lắng xuống!

Một thời gian sau, gia đình Reed muốn tống khứ Jane đến trường Lowood để học bởi họ không muốn có sự xuất hiện của cô trong căn nhà của họ nữa. Trong sự kích động, Jane đã dũng cảm mắng thẳng vào mặt bà dì Reed. “Làm sao tôi dám ư bà Reed? Bởi vì đó là sự thật!”“Người ta cứ tưởng bà là người phụ nữ tốt, nhưng thật ra bà xấu xa, bà là một người không có trái tim. Bà mới là người nói dối!”
Tinh thần và dũng khí của Jane không hề tỷ lệ thuận với thân hình bé nhỏ của cô gái. Cô là một người có chính kiến của mình, cho dù tất cả mọi người xung quanh cho rằng cô hư và nói dối, cô vẫn tin vào bản thân của mình, dám vạch trần bộ mặt thực sự của những kẻ đạo đức giả. Chính những lời nói này của Jane đúng đến mức nó khiến cho bà Reed hoảng sợ, khuôn mặt méo mó như thể sắp bật khóc. Khi nói ra được những gì mình cất giấu bấy lâu, Jane cảm thấy tự do, cảm giác như những sợi gông xiềng xích bấy lâu đã bị phá tung.

 Nói về trường Lowood, dù có khắc khổ về vật chất cũng thoải mái hơn nhiều so với sợi dây xích về tinh thần mà nhà Reeds tạo cho cô. Ở Lowood cũng tồn tại những thế lực cưỡng ép học sinh làm theo mọi quy củ, nhưng ở đây cũng cho cô những người bạn và người thầy, giúp cô trưởng thành hơn và thay đổi. Jane được truyền cảm hứng bởi cô Temple và người bạn thân của mình Burn. Cô Temple là một giáo viên tốt và có tâm, cô đối xử rất ân cần với học sinh của mình. Cô cũng là một người chính trực và không sợ cường quyền, luôn hết lòng để bảo vệ học sinh của mình. Có lẽ chính vì lẽ đó, chính Jane cảm nhận được một nguồn động lực lớn để học tập, để không phụ vào sự tin tưởng của cô. Sự tin tưởng, đôi khi tưởng không là gì, nhưng với một ai đó đấy là cả một gia tài, cả một nguồn sáng cho họ cố gắng với tới. Những tháng ngày sau, Jane luôn là một học sinh xuất sắc. Cô trở thành một người phụ nữ mạnh mẽ, khéo léo, có bản lĩnh và trí tuệ. Sự hoang dại ngày bé giờ đây đã được rèn luyện để trở nên sắc sảo hơn, dạn dĩ hơn.
Khi đọc về cuộc sống của Jane ở trường Lowood, nhận được sự tin tưởng từ cô Temple, tôi lại càng hiểu rõ tại sao Jane lại có động lực mạnh mẽ đến như vậy. Trước đây khi còn là một học sinh cấp 2, tôi cũng đã nhận được sự chăm sóc, động viên đặc biệt từ cô giáo của mình để vượt qua vấn đề về gia đình. Kể từ đó, tôi ôm nỗ lực phấn đấu để không phụ lòng của cô giáo mình. Và cũng kể từ đó, tôi luôn dặn bản thân mình phải sống tốt, đối xử tốt và giúp đỡ mọi người như cách mà cô giáo tôi đã giúp đỡ tôi vậy.
Bây giờ, tôi vẫn yêu thích việc giáo viên, và tôi luôn mong muốn sẽ giúp đỡ được thật nhiều học sinh. Nghề giáo viên, không thể chỉ bằng những kỉ luật và hình phạt giống như thế lực của Brocklehurst, mà đòi hỏi một tấm lòng thực sự - đó mới là một người giáo viên chân chính.

Theo gương cô Temple, sau khi rời Lowood, Jane đến làm gia sư ở lâu đài Thornfield. Tại đây, cô đã phải lòng chủ lâu đài - ông Rochester. Ông Rochester cũng bị ấn tượng sâu sắc với Jane bởi sự thông minh, khéo léo của cô chứ không vì ngoại hình xinh đẹp. Còn đối với Jane, ông chủ lâu đài như cả một thế giới mới mà cô chưa được thấy bao giờ. Đó là thế giới của những điều thú vị, nhưng cũng nhiều nỗi đau. Tuy nhiên lúc đầu, cả hai người lại chưa ai mở lòng đón nhận người kia vì một vài cách trở. Ông Rochester cũng gặp nỗi đau trong quá khứ, và có lẽ chưa đủ tin tưởng để sẵn sàng đón nhận một mối quan hệ mới. Jane lại vẫn thấy tự ti vì thân phận của mình. Rào cản xã hội và một số trải nghiệm không mấy vui vẻ gì trong quá khứ đã ngăn cản hai trái tim đến với nhau. Có lẽ ông Rochester sợ rằng mình sẽ lại bị phản bội một lần nữa, còn Jane cũng sợ rằng mình không hề xứng đáng với một người cao quý như ông. Mối quan hệ của họ cứ bị chủ đích kìm lại, nhưng nó vẫn cứ đang lớn lên ngày một nhiều. Mọi vấn đề được giải quyết khi chính ông Rochester là người chủ động giả dạng người đàn bà Digan và thú nhận tình cảm của mình. Lúc bấy giờ, cả hai có lẽ đã thấy mình là người may mắn và hạnh phúc nhất thế gian, sau khi trải qua được những rào cản về tâm lý. Hai người đã định tiến tới hôn nhân nhưng Jane phát hiện ra người vợ điên của ông Rochester. Mọi thứ xung quanh cô dường như sập đổ, hôn lễ cũng sập đổ và lâu đài Thornfield dường như không còn là nơi cô coi là nhà nữa. Cô đau đớn và bàng hoàng chạy trốn khỏi sự thật, chạy trốn khỏi Thornfield. Có lẽ người ta càng hạnh phúc với những gì mình đang có, người ta càng đau khi mọi thứ bỗng nhiên sụp đổ ngay trong ngày cưới của mình. Nỗi đau làm người ta trở nên mạnh mẽ, dù không có gì trong tay, Jane vẫn quyết định ra đi. Cô đơn và lang thang trên đường cũng không sánh bằng nỗi trống vắng trong tim can cô.
Sau đó Jane được người anh họ của mình giúp đỡ và may mắn Jane nhận được số tiền kế thừa, cô trở nên giàu có. Người anh này của Jane là một người mộ đạo, và cho rằng cuộc đời của Jane có sứ mệnh trở thành vợ và thành bạn đồng hành của ông ta trong cuộc đời cứu thế. Tuy nhiên, Jane của chúng ta vẫn vô cùng tỉnh táo. Cô biết cô muốn gì, tim mình đang hướng về ai. Cô đã từ chối lời cầu hôn của người anh họ mà chạy về Thornfield sau khi có một dự cảm không lành về ông Rochester.
Trở về Thornfield, mọi thứ hoang tàn, cô không thấy bóng dáng của người mình yêu đâu cả. Trái tim cô thắt lại! Sau khi hỏi được thông tin, cô mới biết Rochester vẫn còn sống và đang ở tại lâu đài Yorkshine. Cô vội vã quay trở lại, và cho dù ông Rochester đã tàn phế, nhưng 2 người vẫn đến với nhau và sống hạnh phúc với nhau. Lúc này, mọi rào cản cũng không thể ngăn cản được tình yêu của 2 người, họ đã có một cái kết hạnh phúc viên mãn và ngọt ngào!


Cuốn tiểu thuyết Jane Eyre được coi như cuốn nhật ký của tác giả Challote Bronte bởi sự trùng hợp trong cuôc đời và số phận của bà. Challote không có được hạnh phúc trong tình yêu nhưng bà đã gửi trọn hạnh phúc của mình vào cuốn tiểu thuyết, vào nhân vật của mình và mong muốn nhân vật của mình sẽ có một cái kết viên mãn. Đọc Jane Eyre có lẽ không chỉ ấn tượng về nhân vật trong tác phẩm, cuộc đời và số phận của Challote cũng là điều khiến tôi luôn suy nghĩ và nhớ về…